TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 193/2023/LĐ-PT NGÀY 23/02/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÀ TIỀN LƯƠNG
Trong các ngày 14 và 23 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 84/2022/TLPT-LĐ ngày 05 tháng 12 năm 2022, về việc: “Tranh chấp hợp đồng lao động và đòi tiền lương”.
Do bản án lao động sơ thẩm số 20/2022/LĐ-ST ngày 28/09/2022 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 6299/2022/QĐPT-LĐ ngày 14/12/2022, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 268/2023/QĐ-PT ngày 10/01/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 1085/2023/QĐ-PT ngày 08/2/02023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Chính H, sinh năm 1962 (có mặt ngày 14/02/2023, vắng mặt ngày 23/02/2023) Địa chỉ: G Đường số I, Phường D, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Công ty cổ phần T1 Trụ sở: 2 L, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ liên lạc: 63 B, Phường A, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp: Ông Lê Anh T, sinh năm 1989, chức danh: Chủ tịch Hội đồng quản trị; là người đại diện theo pháp luật (có mặt).
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Nguyễn Chính H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện cùng các tài liệu chứng cứ đã thu thập và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Chính H trình bày:
Ngày 07/9/2011, ông H có ký hợp đồng lao động số 11/HĐLĐ/2011 với Công ty cổ phần T1 (sau đây gọi tắt là Công ty). Thời hạn hợp đồng là từ ngày 07/9/2011 đến ngày 31/8/2012. Chức danh chuyên môn là phụ trách kinh doanh; chức vụ Phó giám đốc; công việc phải làm là phụ trách quản trị kinh doanh, luật, quản lý hành chính; L chức vụ bậc 1; Hệ số lương: 4.66 và theo quy chế trả lương của công ty. Ông H vào làm việc hàng tháng công ty chỉ trả cho ông H mức lương hàng tháng theo hệ số 2.4 là 5.280.000 đồng. Ông H thắc mắc thì được giám đốc công ty nói công ty đang thua lỗ đợi đến cuối năm khi quyết toán có lãi sẽ tính lại để trả thêm. Chưa đến cuối năm thì công ty chấm dứt hợp đồng lao động với ông H và cũng không tính lại số lương còn thiếu theo hợp đồng lao động cho ông H. Ông H còn phải làm thêm nhiệm vụ là trưởng phòng kinh doanh, làm thêm ngoài giờ nhưng không được trả lương thêm.
Trong quá trình làm việc, ngày 08/11/2011, ông H có ứng của Công ty số tiền 10.000.000 đồng theo Phiếu chi số 551. Ông H đã nộp chứng từ quyết toán số tiền này đầy đủ rồi nhưng ngày 28/6/2012, Hội đồng quản trị công ty ra Nghị quyết và yêu cầu Giám đốc tạm giữ 10.000.000 đồng lương của ông H. Hiện nay ông H vẫn chưa được công ty trả số lương này.
Ngày 04/5/2012, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty ký Quyết định số 03/QĐ-HĐQT ngày 04/5/2012 miễn nhiệm chức danh phó giám đốc với ông H. Ngày 14/5/2012, Giám đốc công ty đã ra thông báo số 29/TB-GĐ về việc miễn nhiệm chức danh Phó giám đốc đối với ông H gửi đến lãnh đạo Tổng công ty T2 và các Phòng, Ban có liên quan. Đây là quyết định sai về thẩm quyền giải quyết vì ông H là người do đại hội cổ đông bầu và bổ nhiệm thì bãi nhiệm cũng phải do đại hội cổ đông thực hiện, chủ tịch hội đồng quản trị không có quyền bãi nhiệm chức danh phó giám đốc của ông H. Sau khi Công ty ra Quyết định số 03 miễn nhiệm chức vụ của ông H, ông H vẫn tiếp tục làm việc tại Công ty và nhận lương bình thường.
Ngày 15/8/2012, Công ty đã ban hành Quyết định số 02/QĐ-GĐ/2012 chấm dứt hợp đồng lao động với ông H kể từ ngày 01/9/2012. Đây cũng là quyết định trái pháp luật vì công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không có sự thoả thuận với ông H.
Không đồng ý với quyết định chấm dứt hợp đồng lao động của Công ty ông H đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án:
- Yêu cầu hủy quyết định số 03/QĐ-HĐQT ngày 04/5/2012 miễn nhiệm chức danh phó giám đốc với ông H và buộc Công ty ra thông báo công khai xin lỗi ông H đến các đơn vị mà công ty đã gửi thông báo miễn nhiệm chức danh Phó giám đốc đối với ông H.
- Buộc Công ty bồi thường 02 tháng tiền lương theo Điều 41 Luật lao động do việc Công ty đơn phương ngưng chức danh Phó giám đốc của ông trái pháp luật.
- Yêu cầu Công ty T3 còn thiếu tính từ ngày 07/9/2011 đến hết tháng 08/2012 và tiền lãi. Tiền lương còn thiếu là do theo hợp đồng lao động thỏa thuận hệ số lương ông H được hưởng là 4.66 nhưng thực tế Công ty chỉ trả ông H tiền lương theo hệ số 2.4. Tổng số tiền là 76.122.765 đồng.
- Yêu cầu Công ty trả lại ông H số tiền 10.000.000 đồng Công ty tạm giữ của ông H và tiền lãi 7,5%/năm tính từ ngày tạm giữ đến nay làm tròn là 7.700.000 đồng.
- Yêu cầu Công ty trả tiền ông H làm ngoài giờ công lao động và làm kiêm công việc Trưởng phòng kinh doanh từ ngày 07/9/2011 đến hết tháng 8/2012. Tính bằng 1/2 lương tối thiểu là 1.200.000 đồng/tháng.
- Yêu cầu Công ty hủy Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 02, chấp nhận ông H làm việc theo hợp đồng không xác định thời hạn và bồi thường tiền lương trong những ngày không được làm việc tính từ ngày 01/9/2012 đến ngày xét xử. Mỗi tháng là 11.184.000 đồng.
- Yêu cầu Công ty thanh toán 7 ngày phép năm chưa nghỉ và lãi suất tiền gửi ngân hàng, tổng số tiền là 3.800.000 đồng.
* Bị đơn Công ty Cổ phần T1 có người đại diện theo pháp luật ông Lê Anh T trình bày:
Ngày 07/9/2011, ông H có ký hợp đồng lao động số 11/HĐLĐ/2011 với Công ty cổ phần T1 (gọi tắt là Công ty). Thời hạn hợp đồng là từ ngày 07/9/2011 đến ngày 31/8/2012. Mức lương của ông H theo hợp đồng có hệ số là 4,66 và theo qui chế của công ty. Vào thời điểm ký hợp đồng mức lương cơ bản do nhà nước quy định là 800.000 đồng. Nếu theo quy định tại hợp đồng lao động thì mỗi tháng ông H được nhận 800.000 đồng x 4.66 =3.728.000 đồng nhưng theo qui chế của công ty thì thang bảng lương lấy mức 2.200.000 đồng hệ số 2.4, ông H nhận lương bậc 1 nên tiền lương thực phát cho ông H là 5.280.000 đồng. Mức lương này đã được công khai cho toàn đơn vị và cao hơn hẳn mức lương do nhà nước quy định nên ông H nhận lương mà không có thắc mắc hay khiếu nại. Do ông H không thích hợp làm nhiệm vụ phó giám đốc nên ngày 26.4.2012, Hội đồng quản trị Công ty có công văn số 06/CV-HĐQT đến các thành viên Hội đồng quản trị Công ty lấy ý kiến biểu quyết về việc miễn nhiệm chức danh Phó giám đốc đối với ông H. Ngày 04/5/2012, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty ký Quyết định số 03/QĐ-HĐQT ngày 04/5/2012 miễn nhiệm chức danh phó giám đốc với ông H. Ngày 14/5/2012, Giám đốc công ty đã ra thông báo số 29/TB-GĐ về việc miễn nhiệm chức danh Phó giám đốc đối với ông H gửi đến lãnh đạo Tổng công ty T2 và các Phòng, Ban có liên quan. Sau khi Công ty ra Quyết định số 03 miễn nhiệm chức vụ của ông H, ông H vẫn tiếp tục làm việc tại Công ty và nhận lương bình thường, công ty không giảm lương của ông H nhưng tiền đóng bảo hiểm xã hội có điều chỉnh cho phù hợp với công việc ông H đảm nhiệm (Từ tháng 5/2012 đến tháng 8/2012 hệ số 3,58 chức danh chuyên viên). Ông H vào làm việc với nhiệm vụ phụ trách kinh doanh nên việc ông làm trưởng phòng kinh doanh cũng không nằm ngoài nhiệm vụ của ông và ông H cũng không phải làm thêm ngoài giờ vì vậy yêu cầu được hưởng thêm lương trưởng phòng và lương ngoài giờ là không hợp lý. Công ty không đồng ý trả tiền ông H làm ngoài giờ công lao động và làm kiêm công việc Trưởng phòng kinh doanh từ ngày 07/9/2011 đến hết tháng 8/2012. Tính bằng 1/2 lương tối thiểu là 1.200.000 đồng/tháng.
Do hết hạn hợp đồng công ty không có nhu cầu sử dụng lao động nên ngày 19/7/2012 công ty G thông báo số 34/TB/TNQ11 về việc chấm dứt hợp đồng lao động kể từ ngày 01/9/2012 và ngày 15/8/2012 công ty ban hành Quyết định số 02/QĐ-GĐ/2012 chấm dứt hợp đồng lao động với ông H kể từ ngày 01/9/2012. Quyết định số 02/QĐ-GĐ/2012 không phải là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nên Công ty không đồng ý yêu cầu của ông H: “Yêu cầu Công ty hủy Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 02, chấp nhận ông H làm việc theo hợp đồng không xác định thời hạn và bồi thường tiền lương trong những ngày không được làm việc tính từ ngày 01/9/2012 đến ngày xét xử. Mỗi tháng là 11.184.000 đồng”.
Trong thời gian ông H làm việc tại công ty, phía công ty đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người sử dụng lao động đối với người lao động về chế độ nghỉ phép, về tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội...Tuy nhiên vì tình cảm công ty đồng ý trả thêm tiền nghỉ phép năm và tiền lãi như ông H yêu cầu là 3.800.000 đồng. Đối với khoản tiền 10.000.000 đồng công ty giữ của ông H là tiền ông H ứng trước đi công tác nhưng ông H không thanh toán chứng từ với công ty. Tại phiên toà phía Công ty đồng ý trả cho ông H 10.000.000 đồng tiền lương và tiền lãi theo mức lãi suất 7.5%/năm kể từ ngày 29/6/2012 đến ngày xét xử là 10 năm 3 tháng như ông H yêu cầu là 7.700.000 đồng. Như vậy, công ty đồng ý trả cho ông H tổng cộng là 21.500.000 đồng.
* Tại bản án lao động sơ thẩm số 20/2022/LĐ-ST ngày 28/09/2022 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:
1/ Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn:
Buộc Công ty cổ phần T1 phải thanh toán cho ông Nguyễn Chính H tổng cộng là 21.500.000 đồng (Hai mươi mốt triệu năm trăm ngàn đồng), bao gồm 10.000.000 đồng tiền lương chưa trả cùng với tiền lãi là 7.700.000 đồng và tiền phép năm chưa nghỉ cùng tiền lãi là 3.800.000 đồng. Phương thức thanh toán một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
2/ Không chấp nhận các yêu cầu của nguyên đơn về việc:
- Hủy quyết định số 03/QĐ-HĐQT ngày 04/5/2012 miễn nhiệm chức danh phó giám đốc với ông H và buộc Công ty ra thông báo công khai xin lỗi ông H đến các đơn vị mà công ty đã gửi thông báo miễn nhiệm chức danh Phó giám đốc đối với ông H - Buộc Công ty bồi thường 02 tháng tiền lương theo Điều 41 Bộ Luật lao động do việc Công ty đơn phương ngưng chức danh Phó giám đốc của ông trái pháp luật.
- Buộc Công ty trả tiền lương còn thiếu tính từ ngày 07/9/2011 đến hết tháng 08/2012 và tiền lãi. Tổng số tiền là 76.122.765 đồng.
- Buộc Công ty trả tiền ông H làm ngoài giờ công lao động và làm kiêm công việc Trưởng phòng kinh doanh từ ngày 07/9/2011 đến hết tháng 8/2012. Tính bằng 1/2 lương tối thiểu là 1.200.000 đồng/tháng.
- Buộc Công ty hủy Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 02, chấp nhận ông H làm việc theo hợp đồng không xác định thời hạn và bồi thường tiền lương trong những ngày không được làm việc tính từ ngày 01/9/2012 đến ngày xét xử. Mỗi tháng là 11.184.000 đồng.
3/ Về án phí:
- Công ty Cổ phần T1 phải chịu án phí lao động sơ thẩm là 645.000 (Sáu trăm bốn mươi lăm ngàn) đồng.
- Ông H được miễn án phí lao động sơ thẩm.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và quyền thi hành án của các đương sự.
Ngày 05/10/2022 ông Nguyễn Chính H kháng cáo bản án sơ thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn là ông Nguyễn Chính H không rút đơn khởi kiện, đơn kháng cáo; bị đơn là Công ty cổ phần T1 không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Người kháng cáo là nguyên đơn ông Nguyễn Chính H trình bày:
Bản án lao động sơ thẩm số 20/2022/LĐ-ST ngày 28/09/2022 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh tuyên không có căn cứ, không vô tư khách quan. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa bản án sơ thẩm. Yêu cầu Công ty Cổ phần T1 phải trả tiền lương và tiền bồi thường cho ông H với tổng số tiền là 2.795.995.140 đồng theo bảng tính tiền lương và tiền bồi thường ông đã nộp cho tòa phúc thẩm.
- Bị đơn Công ty Cổ phần T1 trình bày:
Bản án lao động sơ thẩm số 20/2022/LĐ-ST ngày 28/09/2022 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh được xét xử đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử phúc thẩm kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm nghị án đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Sau khi tạm ngưng phiên tòa vào ngày 14/02/2023 thì nguyên đơn ông Nguyễn Chính H có đơn xin dời ngày xét xử do ông phải tham gia phiên tòa khác, xét thấy yêu cầu của ông H là không chính đáng, không thuộc các trường hợp cần tạm ngừng phiên tòa. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vắng mặt ông H.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn; giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 20/2022/LĐ-ST ngày 28/09/2022 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm vấn công khai tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1]. Về tố tụng: Kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Chính H trong hạn luật định, phù hợp khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
Ngày 05/3/2023 nguyên đơn ông Nguyễn Chính H có đơn xin hoãn phiên tòa mở ngày 10/01/2023; Tòa án đã ra quyết định hoãn phiên tòa. Phiên toà phúc thẩm mở lần hai vào ngày 08/02/2023. Ngày 01/02/2023 đại diện bị đơn ông Lê Anh T có đơn xin hoãn phiên tòa mở ngày 08/02/2023 và được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận. Như vậy cấp phúc thẩm đã hoãn việc xét xử hai lần. Tại phiên tòa ngày 14/02/2023 ông H có mặt và trình bày các yêu cầu kháng cáo; phiên tòa đã được tiến hành và kết thúc phần tranh luận giữa các bên đương sự. Do hết thời gian làm việc nên Hội đồng xét xử đã thông báo phiên tòa tạm ngưng và tiếp tục vào lúc 08 giờ 00 phút ngày 23/02/2023. Ngày 16/02/2023 ông Nguyễn Chính H có đơn đề nghị dời ngày xét xử với lý do đã nhận giấy triệu tập tham gia phiên tòa khác của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, với tư cách là đại diện ủy quyền của nguyên đơn. Hội đồng xét xử xét thấy phiên tòa phúc thẩm tại Tòa án nhân Thành phố Hồ Chí Minh đã kết thúc phần tranh luận giữa các bên đương sự, lý do xin dời ngày xét xử của ông H không thuộc trường hợp trở ngại khách quan, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng tiếp tục xét xử. Do đó để đảm bảo tính thống nhất và liên tục, Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục xét xử vắng mặt nguyên đơn.
[2]. Về nội dung, tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn ông Nguyễn Chính H kháng cáo, yêu cầu Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm như sau:
- Hủy Quyết định số 03/QĐ-HĐQT ngày 04/5/2012 của Công ty cổ phần T1 về việc miễn nhiệm chức danh Phó giám đốc với ông Nguyễn Chính H và buộc Công ty ra thông báo công khai xin lỗi ông H đến các đơn vị mà Công ty đã gửi thông báo miễn nhiệm chức danh Phó giám đốc đối với ông H;
- Hủy Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 02/QĐ-GĐ/2012 ngày 15/8/2012 của Công ty cổ phần T1, chấp nhận ông H làm việc theo hợp đồng không xác định thời hạn;
- Buộc Công ty trả tiền lương còn thiếu, bồi thường các khoản khác, tổng cộng là 2.795.995.140 đồng.
Xét kháng cáo của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1]. Căn cứ hợp đồng lao động số 11/HĐLĐ/2011 ngày 07/9/2011 của Công ty cổ phần T1 (gọi tắt là Công ty) với ông Nguyễn Chính H. Thời hạn hợp đồng là từ ngày 07/9/2011 đến ngày 31/8/2012. Mức lương của ông H theo hợp đồng có hệ số là 4,66 và theo qui chế của công ty. Theo qui chế của công ty thì thang bảng lương lấy mức 2.200.000 đồng, hệ số 2.4, ông H nhận lương bậc 1 nên tiền lương thực phát cho ông H là 5.280.000 đồng.
[2.2]. Căn cứ điểm h khoản 2, khoản 3 Điều 108; điểm e khoản 2 Điều 111 Luật doanh nghiệp và tại khoản 6 Điều 27 của Điều lệ Công ty quy định Chủ tịch Hội đồng quản trị có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng và chấm dứt hợp đồng lao động, quy định mức lương và lợi ích khác đối với giám đốc, phó giám đốc.... Như vậy Chủ tịch Hội đồng quản trị có thẩm quyền quyết định miễn nhiệm chức danh Phó giám đốc của ông H nên Quyết định số 03/QĐ-HĐQT ngày 04/5/2012 của Công ty cổ phần T1 không trái pháp luật. Công ty chỉ miễn nhiệm chức danh Phó giám đốc của ông H chứ không đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Ông H vẫn làm việc bình thường tại Công ty với nhiệm vụ phụ trách kinh doanh theo thỏa thuận trong hợp đồng và lãnh lương bình thường cho đến ngày hết hạn hợp đồng. Từ đó, yêu cầu bồi thường theo Điều 41 Bộ luật lao động của ông H là không có cơ sở chấp nhận. Việc Công ty miễn nhiệm chức danh Phó giám đốc của ông H thì phải báo cho các đơn vị liên quan khác là đúng pháp luật nên yêu cầu công khai xin lỗi của ông H cũng không có cơ sở chấp nhận. Án sơ thẩm đã nhận định thẩm quyền ban hành Quyết định số 03/QĐ-HĐQT ngày 04/5/2012 của Công ty cổ phần T1 đúng quy định pháp luật nên không chấp nhận kháng cáo của ông H về việc hủy quyết định này.
[2.3]. Xét hợp đồng lao động của Công ty và ông H có thời hạn dưới 12 tháng, ngày kết thúc hợp đồng là ngày 31/8/2012 nên việc Công ty cổ phần T1 ra Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 02/QĐ-GĐ/2012 ngày 15/8/2012 về việc chấm dứt hợp đồng lao động với ông H kể từ ngày 01/9/2012 là phù hợp với quy định tại Điều 36 Bộ luật lao động. Không có chứng cứ chứng minh ông H tiếp tục làm việc tại Công ty sau khi hợp đồng lao động hết hạn hoặc hai bên có ký tiếp hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Do đó không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc hủy Quyết định số 02 và cũng không chấp nhận yêu cầu bồi thường lương trong những ngày không được làm việc.
[2.4]. Việc công ty trả lương cho ông H theo qui chế trả lương của Công ty là đúng pháp luật. Án sơ thẩm đã nhận định là đúng theo quy định tại Điều 55 Bộ luật lao động.
[3]. Cấp phúc thẩm xét thấy tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn ông Nguyễn Chính H không đưa ra được chứng cứ nào khác cũng như không có tình tiết nào mới. Xét, kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Chính H là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Chính H. Giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 20/2022/LĐ-ST ngày 28/09/2022 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Về án phí lao động phúc thẩm: nguyên đơn ông H không phải nộp tiền án phí theo pháp luật quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Khoản 1 Điều 308, Điều 259 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Khoản 1 Điều 36, Điều 60, Điều 77, Khoản 1 Điều 166 và Điều 167 Bộ Luật Lao Động 1994 (đã sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007);
- Điểm h Khoản 2, Khoản 3 Điều 108 và điểm e Khoản 2 Điều 111 Luật doanh nghiệp 2005;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Điều 6, Điều 7, Điều 26, Điều 30, Điều 31 và Điều 32 của Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014);
Tuyên xử:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Chính H. Giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 20/2022/LĐ-ST ngày 28/09/2022 của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn:
Buộc Công ty cổ phần T1 phải thanh toán cho ông Nguyễn Chính H tổng cộng là 21.500.000 (Hai mươi mốt triệu năm trăm ngàn) đồng; bao gồm 10.000.000 (Mười triệu) đồng tiền lương chưa trả cùng với tiền lãi là 7.700.000 (Bảy triệu bảy trăm ngàn) đồng và tiền phép năm chưa nghỉ cùng tiền lãi là 3.800.000 (Ba triệu tám trăm ngàn) đồng. Phương thức thanh toán một lần, ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án nếu bên phải thi hành án không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại Khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tại thời điểm thanh toán.
2. Không chấp nhận các yêu cầu của nguyên đơn về việc:
- Hủy quyết định số 03/QĐ-HĐQT ngày 04/5/2012 của Công ty cổ phần T1 về việc miễn nhiệm chức danh phó giám đốc với ông H và buộc Công ty ra thông báo công khai xin lỗi ông H đến các đơn vị mà công ty đã gửi thông báo miễn nhiệm chức danh Phó giám đốc đối với ông H.
- Buộc Công ty bồi thường 02 tháng tiền lương theo Điều 41 Bộ luật lao động do Công ty đơn phương ngưng chức danh Phó giám đốc của ông trái pháp luật.
- Buộc Công ty trả tiền lương còn thiếu tính từ ngày 07/9/2011 đến hết tháng 08/2012 và tiền lãi. Tổng số tiền là 76.122.765 đồng.
- Buộc Công ty trả tiền ông H làm ngoài giờ công lao động và làm kiêm công việc Trưởng phòng kinh doanh từ ngày 07/9/2011 đến hết tháng 8/2012. Tính bằng 1/2 lương tối thiểu là 1.200.000 đồng/tháng.
- Hủy Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 02/QĐ-GĐ/2012 ngày 15/8/2012 của Công ty cổ phần T1, chấp nhận ông H làm việc theo hợp đồng không xác định thời hạn và bồi thường tiền lương trong những ngày không được làm việc tính từ ngày 01/9/2012 đến ngày xét xử. Mỗi tháng là 11.184.000 đồng.
3. Về án phí lao động sơ thẩm:
Công ty Cổ phần T1 phải chịu án phí lao động sơ thẩm là 645.000 (Sáu trăm bốn mươi lăm ngàn) đồng.
Ông Nguyễn Chính H được miễn án phí lao động sơ thẩm.
Thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
4. Về án phí lao động phúc thẩm: Ông Nguyễn Chính H được miễn.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng lao động và tiền lương số 193/2023/LĐ-PT
Số hiệu: | 193/2023/LĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 23/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về