TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 12/2023/KDTM-ST NGÀY 25/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH TẾ
Ngày 25 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận S xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 12/2023/TLST-KDTM ngày 13 tháng 3 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng kinh tế về việc cung cấp bê tông thương phầm” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2023/QĐXXST-KDTM ngày 13 tháng 6 năm 2023 và quyết định hoãn phiên tòa số 12/2023/QĐST-KDTM ngày 13/7/2023.
* Nguyên đơn: Công ty cố phần xây dựng thương mại B Địa chỉ: số 730 đường Ngô Quyền, phường An Hải Bắc, quận S, TP Đ
Người đại diện theo pháp luật: ông Lương Công P – chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị
Đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn C – sinh năm 1982; chức vụ: Giám đốc kinh doanh, có mặt.
* Bị đơn: Công ty cổ phần Công nghiệp A 1 Địa chỉ: cụm Công nghiệp Tân Hồng, Hoàn Sơn, thôn Bất Lự, xã Hoàn Sơn, huyện T, tỉnh B
Người đại diện theo pháp luật: ông Lưu Văn T – chức vụ: Tổng giám đốc, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn – ông Nguyễn C trình bày:
Ngày 25 tháng 06 năm 2020, Bê tông B - CN Công Ty Cổ Phần Xây Dựng Thương Mại B, ký kết hợp đồng kinh tế về việc mua bán bê tông thương phẩm số 82/HĐ-BT/2020/BTLB-QA với Công ty Cổ phần Công Nghiệp A 1, do ông Lưu Văn T, chức vụ Tổng giám đốc làm đại diện, với nội dung như sau: Theo Hợp đồng, bên A đồng ý mua và bên B đồng ý bán bê tông thương phẩm. Bên B phải cấp đúng loại, tiêu chuẩn theo yêu cầu của bên A và tiêu chuẩn chất lượng đăng ký của sản phẩm theo quy định kỹ thuật chung. Đơn giá là giá ghi trong hóa đơn GTGT trên cơ sở giá đơn trên Hợp đồng, Phương thức thanh toán: Vào ngày 24 hàng tháng bên A và bên B cùng đối chiếu và xác nhận công nợ. Bên A xác nhận nhân khối lượng cho bên B. Sau thời gian trên mà bên A không phản hồi thì xem như bên A đã đồng ý với giá trị mà bên B đã gửi cho bên A. Bên A thanh toán cho bên B 100% giá trị công nợ trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày đối chiếu xác nhận khối lượng (từ ngày 25 đến ngày 05 của tháng sau). Bên B sẽ phát hành đơn hóa cho bên A.
Quá trình thực hiện các đơn hàng, bên bán đã giao hàng đúng số lượng, chất lượng và tiến độ cho bên mua. Sau khi bên mua nhận hàng, đến thời hạn thanh toán Bên bán đã nhiều lần đôn đốc công nợ nhưng bên mua vẫn không thực hiện đúng cam kết, vi phạm nghĩa vụ thanh toán mua hàng.
Vào ngày 31/12/2021, đại diện Công ty Cổ phần công nghiệp A 1 và Bê tông B - CN Công ty Cổ Phần Xây Dựng Thương Mại B, do ông Lương Công P, chức vụ Trưởng Chi Nhánh đã tiến hành lập Biên bản đối chiếu công nợ cùng xác nhận: tính đến ngày 31/12/2021, Công ty Cổ phần Công Nghiệp A 1 còn nợ Bê tông B - CN Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại B số tiền là: 239.065.000 đồng (Hai trăm ba mươi chín triệu, không trăm sáu mươi lăm ngàn đồng).
Theo khoản 3.2 điều 3 hợp đồng: Nếu quá hạn mà bên A chưa thanh toán cho bên B thì bên B sẽ trả lãi tín dụng quá hạn theo lãi vay quá hạn của Ngân hàng bên B nhưng không được kể từ 15 ngày.
Đến nay, Công ty cổ phần xây dựng thương mại B đã nhiều lần yêu cầu Công ty cổ phần công nghiệp A 1 thanh toán nợ nhưng đều không nhận được sự phản hồi cũng như lý do chính đáng về công việc chậm thanh toán. Việc làm chậm thanh toán của Công ty cổ phần công nghiệp A 1 đã gây rất nhiều khó khăn về tình hình kinh doanh và tài chính cho Công ty cổ phần xây dựng thương mại B. Vì vậy, Công ty Cổ phần xây dựng thương mại B yêu cầu giải quyết buộc Công ty Cổ phần Công nghiệp A 1 phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền: 239.065.000 đồng (Hai trăm ba mươi chín triệu, không trăm sáu mươi lăm ngàn đồng), không yêu cầu tính lãi suất.
* Bị đơn Công ty Cổ phần công nghiệp A 1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ; Tòa án nhân dân quận S ủy thác Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B nơi có trụ sở chính của Công ty Cổ phần công nghiệp A 1 tiến hành lấy lời khai. Tuy nhiên khi Tòa án nhân dân huyện T trực tiếp cho cán bộ xuống làm việc nhưng Công ty Cổ phần Công Nghiệp A 1 không hợp tác, không cung cấp bản khai do đó không có lời khai.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm HĐXX nghị án án như sau:
Đối với việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thư ký từ khi thụ lý đến thời điểm xét xử: Thẩm phán, Thư ký tuân thủ đầy đủ các qui định của Bộ luật tố tụng dân sự;
Đối với HĐXX: Tại phiên tòa HĐXX thực hiện đúng nguyên tắc xét xử và thành phần HĐXX theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự;
Đối với người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ. Riêng bị đơn chưa chấp hành chưa đầy đủ quy định của pháp luật.
Về quan điểm giải quyết vụ án:
Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm g khoản 1 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 266 của Bộ luật Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 44, Điều 50 Luật thương mại;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng kinh về việc cung cấp bê tông thương phẩm” của Công ty cổ phần xây dựng thương mại B đối với Công ty cổ phần Công nghiệp A 1. Buộc Công ty cổ phần Công nghiệp A 1 có nghĩa vụ trả cho Công ty cổ phần xây dựng thương mại B số tiền 239.065.000đ (Hai trăm ba mươi chín triệu không trăm sáu mươi lăm triệu đống)
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Tranh chấp hợp đồng kinh tế về việc cung cấp bê tông giữa Công ty Cổ phần xây dựng Thương mại B và Công ty Cổ phần công nghiệp A 1, nguyên đơn lựa chọn nơi thực hiện hợp đồng là công trình số 1 đường Trường Sa, quận S, TP Đ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận S theo quy định tại khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm g khoản 1 Điều 40 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Bị đơn là Công ty Cổ phần Công nghiệp A 1 mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt đến lần thứ hai nên thuộc trường hợp xét xử vắng mặt theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về nội dung:
[2.1] Hợp đồng kinh tế về việc mua bán bê tông thương phẩm số 82/HĐ- BT/2020/BTLB-QA giữa Công ty Cổ phần xây dựng Thương mại B với Công ty Cổ phần công nghiệp A 1 về việc cung cấp bê tông cho công trình xây dựng tại địa chỉ số 01 đường Trường Sa, quận S, TP Đ được ký kết trên cơ sở thỏa thuận giữa hai bên, hai bên tự nguyên tự nguyện, nội dung không trái pháp luật, đạo đức xã hội, tuân thủ các quy định của pháp luật về nội dung và hình thức nên được thừa nhận và bảo vệ. Các bên tham gia trong giao dịch này có mọi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đã ký kết nói trên.
[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy: Theo hợp đồng kinh tế số 82/HĐ-BT2020BTLB-QA ngày 20/6/2020 giữa Công ty Cổ phần xây dựng thương mại B với Công ty Cổ phần công nghiệp A 1 thì Bê tông B có nghĩa vụ cung cấp bê tông thương phẩm cho các công trình của A 1 trên địa b àn thành phố Đ. Sau khi ký kết hợp đồng, Bê tông B đã cung cấp đấy đủ về khối lượng, chất lượng tại Công trình số 01 đường Trường Sa, thuộc địa bàn quận S cho công trình xây dựng của Công ty Cổ phần công nghiệp A 1. Khi cung cấp bê tông theo khối lượng yêu cầu của A 1 thì được các nhân viên kỹ thuật của Công ty Cổ phần công nghiệp A 1 xác nhận cụ thể như sau: Ngày 07/7/2020 Bê tông B cung cấp bê tông cho Công ty A 1 với khối lượng 110,5 m3 thành tiền là 119.340.000đ xuất hóa đơn số 736 ngày 25/7/2020; Ngày 16/7/2020 cung cấp khối lượng bê tông 49 m3 thành tiền 52.920.000đ xuất hóa đơn số 736 ngày 25/7/2020; Ngày 23/7/2020 cung cấp khối lượng bê tông 14,5 m3 thành tiền 16.045.000đ xuất hóa đơn số 736 ngày 25/7/2020; Ngày 25/8/2020 cung cấp bê tông khối lượng 47 m3 thành tiền 50.760.000đ xuất hóa đơn số 760 ngày 25/8/2020. Tổng khối lượng tương đương số tiền mà Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại B cung chấp tại Công trình số 1 đường Trường Sa cho Công ty Cổ phần công nghiệp A 1 là 239.065.000đ. Khi tiến hành bơm bê tông đều có nhân viên của Công ty A ký nhận khối lượng sau đó mới tiến hành đổ bê tông. Như vậy Công ty Cổ phần Xây dựng thương mại B đã thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ cung cấp khối lượng bê tông thì phía Công ty A 1 không chịu đối chiếu công nợ mặc dù Công ty Bê tông B đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng theo yêu cầu của Công ty A 1. Sau khi Tòa án tiền hành thụ lý vụ án đã gửi các văn bản cho Công ty A 1; Ủy thác choa Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B thu thập chứng cứ lấy lời khai. Tuy nhiên khi cán bộ Tòa án huyện T xuống trực tiếp tại trụ sở Công ty A 1, nhưng phía Công ty A 1 vẫn không hợp tác, không cung cấp bản khai. Điều đó cho thấy Công ty cổ phần Công nghiệp A 1 cố tình không chịu thanh toán số tiền nêu trên cho Công ty bê tông B vi phạm nghĩa vụ thanh toán tại khoản 3.2 Điều 3 của hợp đồng ma hai bên đã ký kết.
Do đó việc Công ty cổ phần xây dựng B khởi kiện buộc Công ty cổ phần Công nghiệp A 1 trả số tiền 239.065.000đ là có căn cứ nên chập nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần xây dựng thương mại B. Buộc Công ty cổ phần Công nghiệp A 1 có nghĩa vụ trả số tiền 239.065.000đ cho Công ty cổ phần xây dựng B.
[3] Về án phí: Do yêu cầu của Công ty cổ phần xây dựng thương mại B được chấp nhận nên Công ty cổ phần Công nghiệp A 1 phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Cụ thể số tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm Công ty cổ phần Công nghiệp A 1 phải chịu là 239.065.000đ x 5% = 11.953.250đ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm g khoản 1 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 266 của Bộ luật Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 44, Điều 50 Luật thương mại;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng kinh về việc cung cấp bê tông thương phẩm” của Công ty cổ phần xây dựng thương mại B đối với Công ty cổ phần Công nghiệp A 1.
Xử:
1/ Buộc Công ty cổ phần Công nghiệp A 1 có nghĩa vụ trả cho Công ty cổ phần xây dựng thương mại B số tiền 239.065.000đ (Hai trăm ba mươi chín triệu không trăm sáu mươi lăm triệu đống).
2/ Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
3/ Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: 11.953.250đ Công ty cổ phần Công nghiệp A 1 phải chịu.
Hoàn trả cho Công ty cổ phần xây dựng thương mại B số tiền tạm ứng án phí 5.976.000đ đã nộp theo biên lai thu số 0004706 ngày 16/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòa Vang, TP Đ.
Báo cho các bên đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng kinh tế số 12/2023/KDTM-ST
Số hiệu: | 12/2023/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 25/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về