TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 01/2024/KDTM-PT NGÀY 05/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH TẾ
Ngày 05 tháng 01 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 08/2023/KDTM-PT ngày 30 tháng 10 năm 2023 về việc tranh chấp hợp đồng kinh tế Do bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2023/KDTM-ST ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Phú Thọ có kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2023/QĐXX PT-DS ngày 22 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty cổ phần X Địa chỉ: Phố T, phường T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Xuân Q - chức vụ: Giám đốc - Có Mặt.
Bị đơn: Công ty cổ phần T Địa chỉ: Khu P (khu C), xã C, huyện L, tỉnh Phú Thọ Người đại diện theo pháp luật: ông Lê Hải N - chức vụ: Tổng giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn L - chức vụ: Phó tổng giám đốc.
Địa chỉ: Khu P (khu C), xã C, huyện L, tỉnh Phú Thọ - Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện của nguyên đơn là Công ty Cổ phần X và các lời khai tiếp theo tại Tòa án cũng như tại phiên tòa hôm nay người đại diện theo pháp luật trình bày:
Theo Hợp đồng kinh tế ngày 02/02/2015 Công ty cổ phần X nước đã ký với Công ty cổ phần T về việc cung cấp bê tông thương phẩm M250 để đổ mái tầng 1, 2, 3. Quá trình thực hiện hợp đồng, công ty T đã cung cấp bê tông thương phẩm cho Công ty cổ phần X theo thỏa thuận trong hợp đồng. Hiện nay do chất lượng bê tông không đảm bảo theo hợp đồng gây nứt nẻ, xuống cấp. Ngày 19/8/2022 công ty đã thuê công ty cổ phần X (FTC) thí nghiệm bằng phương pháp súng bật nảy, kiểm định chất lượng cho kết quả chỉ đạt 60% - 70%, kiểm tra ba cấu kiện theo thí nghiệm cụ thể:
Mẫu cấu kiện 1 chỉ đạt M194/M250 Mẫu cấu kiện 2 chỉ đạt M160,4/M250 Mẫu cấu kiện 3 chỉ đạt M189,3/M250 Ngày 03/7/2023 công ty đã thuê Công ty cổ phần X (FTC) thí nghiệm bằng phương pháp kiểm tra độ bền nén của mẫu bê tông khoan, kết quả thí nghiệm bê tông hiện trường Rht =17,0 N/mm2; Rhtmin =13,0 N/mm2.
Căn cứ vào kết quả thí nghiệm xác định cường độ của bê tông trên không đảm bảo chất lượng theo hợp đồng kinh tế (BTTP mác 250). Trong hợp đồng kinh tế giữa hai bên đã ký thì thời hạn khiếu nại về chất lượng bê tông trong thời hạn là 30 ngày. Tuy nhiên trong quá trình sử dụng Công ty cổ phần X thấy công trình bị nứt nẻ, xuống cấp nên đã hai lần thuê công ty cổ phần X (FTC) giám định, kiểm tra cường độ bê tông bằng thí nghiệm cho kết quả trên.
Vậy công ty cổ phần X yêu cầu Công ty cổ phần T phải thanh toán số tiền BTTP không đúng theo hợp đồng kinh tế gồm:
- Số tiền bê tông M250: 127 m3 x 760.000 đ = 96.520.000đồng - Thuê máy bơm bê tông ca: 4 x 3.000.000đ = 12.000.000đồng - Tiền thí nghiệm xác định cường độ bê tông: 2.000.000 đồng Tổng cộng số tiền phải đền bù là: 110.520.000 đ (Một trăm mười triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng).
Đối với công trình của Công ty X là công trình cải tạo (Công trình đã xây dựng tầng 1 từ trước nên không nhớ xây vào năm nào. Sau đó cải tạo nâng cấp tầng 2, tầng 3 vào năm 2015). Để đảm bảo quyền lợi cho Công ty cổ phần X, công ty đề nghị Tòa án buộc Công ty cổ phần T phải đền bù cho công ty điện nước Phú Thọ số tiền là: 110.520.000 đ (Một trăm mười triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng).
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn trong bản tự khai cũng như tại phiên tòa hôm nay người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Căn cứ vào hợp đồng kinh tế ngày 02 tháng 02 năm 2015 giữa Công ty cổ phần T và Công ty cổ phần X về việc: cung cấp cát, sỏi, bê tông thương phẩm phục vụ thi công công trình: Trụ sở công ty ở địa chỉ: Phường T, TP . - Tỉnh Phú Thọ. Trong năm 2015, Công ty X có mua bê tông của Công ty T. Quá trình thực hiện việc mua bán, Công ty T đã cung cấp đầy đủ bê tông thương phẩm cả về số lượng và chất lượng cho Công ty điện nước Phú Thọ theo thoả thuận. Sau khi cấp hàng xong Công ty điện nước Phú Thọ còn nợ lại Công ty T số tiền mua bê tông là 196.523.740đ (Một trăm chín mươi sáu triệu, năm trăm hai mươi ba nghìn, bảy trăm bốn mươi đồng). Công ty T đã đòi nợ rất nhiều nhưng Công ty điện nước Phú Thọ không thanh toán. Sau đó, Công ty T đã khởi kiện Công ty điện nước Phú Thọ ra Tòa án nhân dân TP. Việt Trì và đã được Tòa án giải quyết theo quyết định sự thoả thuận của các bên đương sự số: 05/2022/QĐST-KDTM ngày 7/9/2022. Nhưng cho đến nay, Công ty điện nước Phú Thọ cũng không thực hiện trả nợ theo quyết định sự công nhận thỏa thuận của Tòa án.
Ngày 05/12/2022 Công ty X có đơn khởi kiện Công ty T về việc: “Bê tông không đảm bảo chất lượng theo hợp đồng”. Căn cứ vào hợp đồng kinh tế ngày 02 tháng 02 năm 2015 đã ký giữa các bên. Căn cứ vào Điều II: Chất lượng, nguồn gốc và quy cách bê tông thương phẩm có ghi rõ: “Nếu bên A (Công ty X nước Phú Thọ) có khiếu nại về chất lượng bê tông do bên B (Công ty T) cung cấp trong đợt hàng bất kỳ nào đó thì việc khiếu nại có giá trị khi được thực hiện bằng văn bản, trong thời gian 30 ngày kể từ thời điểm bê tông của bên B đổ vào vị trí chỉ định của công trình. Nếu quá thời gian trên bên B không nhận được khiếu nại gì từ bên A, thì bê tông do bên B cung cấp được coi là đạt chất lượng theo thoả thuận của hợp đồng này”.
Công trình của công ty X là công trình cải tạo nâng cấp chứ không phải xây mới. Đề nghị nguyên đơn cung cấp hồ sơ thiết kế, bản vẽ thi công, bản quyết toán công trình, giấy phép xây dựng cho Tòa án để làm căn cứ giải quyết vụ án.
Căn cứ vào điều II Hợp đồng kinh tế ngày 02/02/2015, tính từ ngày dừng cấp bê tông đến nay đã là 07 năm 02 tháng thì mọi tranh chấp, khiếu nại đều không có giá trị. Vì vậy, Công ty cổ phần T không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn là Công ty cổ phần X nước Phú Thọ.
Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2023/KDTM-ST ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân huyện Lâm Thao đã:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 275 của Bộ luật dân sự; Điều 318 Luật thương mại; khoản 5 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 3 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần X yêu cầu Công ty cổ phần T phải thanh toán số tiền 110.520.000 đ (Một trăm mười triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng).
Về án phí:
- Buộc Công ty cổ phần X phải chịu 5.526.000 đồng (Năm triệu năm trăm hai mươi sáu nghìn đồng) tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Xác nhận Công ty cổ phần X đã nộp số tiền tạm ứng án phí là: 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0002359 ngày 21/12/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Thao, số tiền còn lại Công ty cổ phần X phải nộp là 2.526.000 đồng (Hai triệu năm trăm hai mươi sáu nghìn đồng).
Về chi phí tố tụng: Công ty cổ phần X phải chịu 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn đồng) chi phí về việc xem xét thẩm định tại chỗ. Xác nhận đã nộp.
Ngoài ra bản án còn tuyên về quyền kháng cáo.
Ngày 27 tháng 9 năm 2023, đại diện công ty cổ phần X nước Phú Thọ có văn bản không nhất trí bản án sơ thẩm xét xử ngày 14/9/2023; Ngày 28/9/2023 Tòa án yêu cầu sửa chữa bổ sung đơn kháng cáo, ngày 02/10/2023 đại diện công ty cổ phần X nước Phú Thọ nộp đơn kháng cáo có nội dung: Không nhất trí bản án số 06/2023/KDTM-ST ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân huyện L, tỉnh Phú Thọ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện công ty cổ phần X nước Phú Thọ giữ nguyên yêu cầu kháng, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ sửa bản án sơ thẩm, buộc Công ty cổ phần T phải bồi thường số tiền 110.520.000đ Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn đại diện Công ty cổ phần T trình bày đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều tuân theo Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự, không chấp nhận kháng cáo của Công ty cổ phần X nước Phú Thọ, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 06/2023/KDTM-ST ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân huyện L, tỉnh Phú Thọ, buộc Công ty cổ phần X phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở ý kiến trình bày của các bên đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ tham gia phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về hình thức đơn kháng cáo của Công ty cổ phần X trong luật định, đơn kháng cáo hợp lệ.
[2] Xét về nội dung kháng cáo:
Công ty cổ phần X kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm số 06/2023/KDTM-ST ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân huyện L, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần X, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ buộc Công ty cổ phần T phải bồi thường số tiền 110.520.000đ.
Hội đồng xét xử xét thấy: Kháng cáo của Công ty cổ phần X là không có căn cứ chấp nhận, bởi lẽ:
- Số tiền 110.520.000đ mà công ty cổ phần X nước Phú Thọ yêu cầu Tòa án buộc Công ty cổ phần T phải bồi thường là do công ty cổ phần X nước Phú Thọ xác định phát sinh từ hợp đồng kinh tế ngày 02 tháng 02 năm 2015 giữa Công ty cổ phần T và Công ty cổ phần X về việc cung cấp cát, sỏi, bê tông thương phẩm phục vụ thi công công trình, trụ sở công ty ở địa chỉ: Phường T, TP . - Tỉnh Phú Thọ. Về hình thức và nội dung của hợp đồng kinh tế ngày 02 tháng 02 năm 2015 là đúng quy định của pháp luật; việc thực hiện hợp đồng bên bán đã giao đủ hàng và bên mua đã nhận đủ hàng. Tại Điều II về chất lượng, nguồn gốc và quy cách bê tông thương phẩm của hợp đồng kinh tế về việc cung cấp bê tông thương phẩm giữa bên bán là Công ty cổ phần T và bên mua là công ty cổ phần X điện nước Phú Thọ, được xác định đã thực hiện xong; Tuy nhiên công ty cổ phần X điện nước Phú Thọ cho rằng chất lượng hàng hóa là bê tông mà Công ty cổ phần T1 cho Công ty cổ phần X là không đảm bảo theo hợp đồng gây nứt nẻ ..., Công ty cổ phần X đã chứng minh về việc chất lượng b tông không đảm bảo tại thời điểm:
Ngày 19/8/2022 công ty đã thuê công ty cổ phần X (FTC) thí nghiệm bằng phương pháp súng bật nảy, kiểm định chất lượng cho kết quả chỉ đạt 60% - 70%, kiểm tra ba cấu kiện theo thí nghiệm cụ thể:
Mẫu cấu kiện 1 chỉ đạt M 194/M250 Mẫu cấu kiện 2 chỉ đạt M160,4/M250 Mẫu cấu kiện 3 chỉ đạt M189,3/M250 Ngày 03/7/2023 công ty đã thuê Công ty cổ phần X (FTC) thí nghiệm bằng phương pháp kiểm tra độ bền nén của mẫu bê tông khoan, kết quả thí nghiệm bê tông hiện trường Rht =17,0 N/mm2; Rhtmin =13,0 N/mm2.
Căn cứ vào hợp đồng kinh tế ngày 02 tháng 02 năm 2015 giữa Công ty cổ phần T và Công ty cổ phần X nước Phú Thọ, tại điều II của hợp đồng các bên thỏa thuận: Chất lượng, nguồn gốc và quy cách bê tông thương phẩm có ghi rõ: “Nếu bên A (Công ty X nước Phú Thọ) có khiếu nại về chất lượng bê tông do bên B (Công ty T) cung cấp trong đợt hàng bất kỳ nào đó thì việc khiếu nại có giá trị khi được thực hiện bằng văn bản, trong thời gian 30 ngày kể từ thời điểm bê tông của bên B đo vào vị trí chỉ định của công trình. Nếu quả thời gian trên bên B không nhận được khiếu nại gì từ bên A, thì bê tông do bên B cung cấp được coi là đạt chất lượng theo thoả thuận của hợp đồng này”.
Theo nội dung điều II nêu trên thì việc khiếu nại về chất lượng bê tông có giá trị trong thời gian 30 ngày kể từ thời điểm bê tông của bên B đổ vào vị trí chỉ định của công trình, Hợp đồng được hai bên ký kết ngày 02 tháng 02 năm 2015, nội dung hợp đồng hai bên xác định được thực hiện năm 2015; Như vậy từ năm 2015 đến ngày thí nghiệm bằng phương pháp súng bật nảy, kiểm định chất lượng là ngày 19/8/2022 và đến ngày thí nghiệm bằng phương pháp kiểm tra độ bền nén của mẫu bê tông khoan là ngày 03/7/2023 thì thời hạn khiếu nại về chất lượng bê tông theo hợp đồng kinh tế ngày 02 tháng 02 năm 2015 không còn để xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật, các bên thỏa thuận với nhau thời gian khiếu nại chất lượng bê tông theo hợp đồng là 30 ngày kể từ thời điểm đổ bê tông như đã nêu trên; Mặt khác chất lượng công trình nói chung, chất lượng bê tông nói riêng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như khí hậu, thời tiết, địa chất, kết cấu thép móng, thép giằng, thép sàn, quá trình thi công ... cũng dẫn đến việc mặt sàn nứt vỡ thẩm thấu...; Do vậy không có căn cứ pháp lý đề buộc Công ty cổ phần T bồi thường cho Công ty cổ phần X số tiền 110.520.000đ.
[3] Về thời hiệu khởi kiện: Các đương sự không ai yêu cầu áp dụng thời hiệu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Không chấp nhận đơn kháng cáo của Công ty cổ phần X nước Phú Thọ và giữ nguyên bản án sơ thẩm số 06/2023/KDTM-ST ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ là có căn cứ được chấp nhận.
[5] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của Công ty cổ phần X nước Phú Thọ, cần giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 06/2023/KDTM-ST ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân huyện L, tỉnh Phú Thọ.
[6] Về án phí phúc thẩm: Kháng cáo của Công ty cổ phần X không được chấp nhận nên phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308; Khoản 1 điều 148 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
1. Xử: Không chấp nhận kháng cáo của Công ty cổ phần X nước Phú Thọ.
2. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 06/2023/KDTM-ST ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân huyện L, tỉnh Phú Thọ.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 275 của Bộ luật Dân sự; Điều 318 Luật thương mại; khoản 5 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 3 Điều 26 của Nghị quyết số 326/QH14/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần X yêu cầu Công ty cổ phần T phải thanh toán số tiền 110.520.000 đ (Một trăm mười triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng).
Về án phí: Buộc Công ty cổ phần X phải chịu 5.526.000 đồng (Năm triệu năm trăm hai mươi sáu nghìn đồng) tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Xác nhận Công ty cổ phần X đã nộp số tiền tạm ứng án phí là: 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0002359 ngày 21/12/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Thao. Số tiền còn lại Công ty cổ phần X phải nộp là 2.526.000 đồng (Hai triệu năm trăm hai mươi sáu nghìn đồng).
Về chi phí tố tụng: Công ty cổ phần X phải chịu 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn đồng) chi phí về việc xem xét thẩm định tại chỗ. Xác nhận Công ty cổ phần X đã nộp đủ .
Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Buộc Công ty cổ phần X phải chịu 2.000.000đ (Hai triệu đồng); được trừ vào số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng) do đại diện Công ty cổ phần X đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm số tiền 300.000 đ (Ba trăm, nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0002577 ngày 11/10/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ và nộp tạm ứng án phí phúc thẩm bổ sung số tiền 1.700.000 đ (Một triệu bảy trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0002578 ngày 11/10/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ; Xác nhận Công ty cổ phần X đã nộp đủ tiền án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng kinh tế số 01/2024/KDTM-PT
Số hiệu: | 01/2024/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 05/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về