TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 89/2023/DS-PT NGÀY 22/03/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KHOÁN VIỆC
Ngày 22 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 328/2022/TLPT-DS ngày 10 tháng 11 năm 2022, về việc “Tranh chấp hợp đồng Khoán việc”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 252/2022/DS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2023/QĐ-PT ngày 09 tháng 02 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Chí L, sinh năm 1983; Cư trú tại: Ấp Xóm L, xã Đ, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn N - Luật sư Văn phòng luật sư A, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Cà Mau (có mặt).
- Bị đơn: Công ty TNHH Xây dựng Hoàng V (gọi tắt là Công ty Hoàng V); Địa chỉ: Số 86B, đường Quang Trung, khóm 5, phường 5, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trương Ngọc K, sinh năm 1963 – Chức vụ: Giám đốc Công ty TNHH Xây dựng Hoàng V (có mặt).
Người kháng cáo: Ông Nguyễn Chí L (là nguyên đơn).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo lời trình bày của các bên đương sự và kết quả xét xử, vụ án được tóm tắt như sau:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Hoàng V (sau đây gọi tắt là Công ty Hoàng V) do ông Trương Ngọc K là Giám đốc là đơn vị trúng thầu thi công xây dựng công trình Trường Mẫu giáo xã Lâm Hải, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau do Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng huyện Năm Căn làm chủ đầu tư theo Hợp đồng thi công số: 16/2020/HĐXD ngày 22/6/2020. Sau khi ký kết hợp đồng xây dựng, ngày 26/6/2020 Công ty Hoàng V đã ký kết Hợp đồng khoán việc với ông Nguyễn Chí L với tư cách là cá nhân đại diện cho Đội thi công xây dựng để thi công xây dựng một số hạng mục thuộc dự án Trường Mẫu giáo Lâm Hải. Nội dung hợp đồng là Công ty Hoàng V khoán cho ông Nguyễn Chí L chịu trách nhiệm vận chuyển và cung cấp toàn bộ coppha, giàn giáo, cây chống, các thiết bị thi công, lán trại và che chắn khu vực thi công nếu có yêu cầu của chủ đầu tư. Tiền công khoán gọn thi công các hạng mục: San lấp mặt bằng; nâng cấp sân trường; cải tạo, sửa chữa, nâng cấp dãy 04 phòng học kiên cố; xây dựng mới hệ thống mái che; nâng cấp, mở rộng khối lớp học 10 phòng với tổng tiền công khoán gọn cho các hạng mục trên là 328.765.572 đồng và đơn giá được xác định là đơn giá cố định, giá trị quyết toán theo khối lượng thi công thực tế nhân với đơn giá hợp đồng. Khối lượng phát sinh ngoài hồ sơ phê duyệt hai bên thương thảo giá để thực hiện. Thời hạn thi công là 90 ngày. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty Hoàng V thuê ông Nguyễn Chí L thực hiện thêm những công việc phát sinh ngoài hợp đồng, gồm: Di dời mái che tập thể dục; Nâng cấp, sửa chữa dãy phòng hành chính; Nâng cấp, sửa chữa khối lớp học 10 phòng; Nâng cấp sân đường, hệ thống thoát nước; Xây dựng mới nhà để xe giáo viên với tổng số tiền công khoán là 233.491.200 đồng. Sau khi thực hiện việc thi công xây dựng thì các bên xảy ra tranh chấp.
Ông Nguyễn Chí L cho rằng: Thời gian thực hiện hợp đồng có trễ hạn nhưng không xác định được cụ thể. Các hạng mục thi công trong hợp đồng (theo phụ lục hợp đồng số 16/2020) có tổng giá trị tiền công khoán là 328.765.572 đồng, Công ty Hoàng V chỉ thanh toán cho ông 260.000.000 đồng, còn nợ lại 68.765.572 đồng. Đối với các hạng mục phát sinh ngoài hợp đồng có tổng giá trị tiền nhân công là 248.384.220 đồng (tính theo giá dự toán) thì các hạng mục mà ông không thực hiện gồm: lát nền mái che tập thể dục; xây mới nhà để xe; nâng cấp sân đường, hệ thống thoát nước có tổng số tiền nhân công là 41.834.193 đồng, nên Công ty Hoàng V còn phải thanh toán cho ông 206.550.027 đồng, nhưng Công ty Hoàng V chỉ mới thanh toán 120.000.000 đồng, còn nợ lại 86.550.027 đồng. Tổng cộng ông yêu cầu Công ty Hoàng V trả cho ông 155.315.599 đồng.
Còn ông Trương Ngọc K thì xác định: Việc Công ty Hoàng V khoán gọn tiền công cho ông Nguyễn Chí L thực hiện thi công công trình xây dựng Trường Mẫu giáo xã Lâm Hải, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau là đúng như ông Nguyễn Chí L đã khai. Tiền công khoán gọn các hạng mục công trình theo phụ lục hợp đồng số 16/2020 và Hợp đồng Khoán việc ngày 26/6/2020 với tổng số tiền công khoán gọn là 328.765.572 đồng. Phần phát sinh ngoài hợp đồng theo Phụ lục Hợp đồng ngày 02/10/2020 là 230.457.842 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng, ông Nguyễn Chí L không thi công các hạng mục của Phụ lục hợp đồng ngày 22/6/2020 kèm theo Hợp đồng số 16/2020 tại các mục theo thứ tự 3, 4, 39, 40, 162, 163, từ 167 đến 182 có tổng số tiền công bằng 71.571.000 đồng. Phần phát sinh ngoài hợp đồng các hạng mục mà ông Nguyễn Chí L không thực hiện theo phụ lục hợp đồng tại các hạng mục sau: Di dời mái che tập thể dục, số thứ tự: 10; Nâng cấp, sửa chữa dãy phòng hành chính, số thứ tự 5 đến 7; Nâng cấp, sửa chữa khối lớp học 10 phòng, số thứ tự từ 12 đến 26; Nâng cấp sân đường, hệ thống thoát nước, số thứ tự 2, 3, 8, 9, 10, 15, 16 và xây mới nhà để xe. Tổng số tiền công của các hạng mục không thực hiện là 103.368.297 đồng. Sau khi đối trừ phần tiền công các hạng mục do ông Nguyễn Chí L không thực hiện thì phần trong hợp đồng Công ty đã trả cho ông Nguyễn Chí L 260.000.000 đồng, thừa 2.745.000 đồng. Phần phát sinh ngoài hợp đồng Công ty đã trả 120.000.000 đồng, nợ lại 10.122.903 đồng. Đối trừ hai khoản thì Công ty Hoàng V còn nợ ông Nguyễn Chí L 7.377.903 đồng. Ngoài ra, theo hợp đồng thì tiền điện nước ông Nguyễn Chí L phải chịu nhưng ông Nguyễn Chí L không thanh toán, Công ty Hoàng V đã thanh toán cho Trường Tiểu học 10.000.000 đồng và Trường Mẫu giáo 3.000.000 đồng. Đồng thời, Công ty Hoàng V còn thuê nhân công lắp lại mái che do phía ông L tháo dỡ số tiền 14.000.000 đồng, tổng cộng 27.000.000 đồng. Công ty Hoàng V yêu cầu ông L thanh toán trả lại cho Công ty Hoàng V.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 252/2022/DS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau đã quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Chí L, buộc Công ty TNHH Xây dựng Hoàng V tiếp tục thanh toán cho ông Nguyễn Chí L số tiền 7.377.903 đồng. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Chí L về số tiền yêu cầu chênh lệch là 147.937.696 đồng.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 05/10/2022, ông Nguyễn Chí L kháng cáo yêu cầu sửa án sơ thẩm để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và tại phiên tòa phúc thẩm ông Nguyễn Chí L giữ nguyên việc kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Chí L. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 252/2022/DS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Kháng cáo của ông Nguyễn Chí L được thực hiện trong hạn luật định và hợp lệ nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét về quan hệ pháp luật đang tranh chấp thì giữa Công ty Hoàng V có xác lập hợp đồng khoán việc với ông Nguyễn Chí L để thi công các hạng mục trong xây dựng cơ bản và ông Nguyễn Chí L được Công ty Hoàng V trả tiền công cho các hạng mục thi công, nên về quan hệ pháp luật được xác định Hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực khoán việc thi công công trình. Quá trình thực hiện hợp đồng các bên xảy ra tranh chấp về nghĩa vụ thanh toán. Tòa án cấp sơ thẩm xác định “Tranh chấp về nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng dân sự” tuy việc xác định không cụ thể nhưng đảm bảo về căn cứ pháp luật.
[3] Xét nội dung tranh chấp và kháng cáo cho thấy: Sau khi trúng thầu và ký kết hợp đồng thi công xây dựng công trình Trường Mẫu giáo xã Lâm Hải, huyện Năm Căn (Hợp đồng thi công số: 16/2020/HĐXD ngày 22/6/2020 kèm theo Phụ lục hợp đồng ngày 22/6/2020). Ngày 26/6/2020, Công ty Hoàng V đã ký kết Hợp đồng khoán việc với ông Nguyễn Chí L với tư cách là cá nhân đại diện cho Đội thi công xây dựng để thi công xây dựng một số hạng mục thuộc dự án công trình có tổng giá trị về tiền nhân công là 328.765.572 đồng. Quá trình thực hiện, Công ty Hoàng V thuê ông Nguyễn Chí L thực hiện thêm những công việc phát sinh ngoài hợp đồng theo Phụ lục hợp đồng ngày 02/10/2020, có tổng giá trị tiền nhân công là 233.491.200 đồng (theo phụ lục hợp đồng là 230.457.842 đồng). Kết quả thi công, ông Nguyễn Chí L không thực hiện thi công các hạng mục theo số thứ tự 3, 4, 39, 40, 162, 163, từ 167 đến 182 của Phụ lục hợp đồng số: 16/2020, có tổng số tiền công bằng 71.571.000 đồng (theo phụ lục hợp đồng là 72.168.293 đồng). Các hạng mục ngoài hợp đồng không thực hiện theo phụ lục hợp đồng ngày 02/10/2020 gồm Di dời mái che tập thể dục, số thứ tự: 10; Nâng cấp, sửa chữa dãy phòng hành chính, số thứ tự 5 đến 7; Nâng cấp, sửa chữa khối lớp học 10 phòng, số thứ tự từ 12 đến 26; Nâng cấp sân đường, hệ thống thoát nước, số thứ tự 2, 3, 8, 9, 10, 15, 16 và xây mới nhà để xe. Tổng số tiền công của các hạng mục không thực hiện là 103.368.297 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Chí L và ông Trương Ngọc K đều thống nhất ý kiến về giá trị xây lấp của các hạng mục công trình; giá trị nhân công từng hạng mục và các hạng mục mà ông Nguyễn Chí L không thực hiện thi công là hoàn toàn đúng theo nội dung mà Bản án sơ thẩm đã xác định.
Ông Nguyễn Chí L cho rằng, trong các hạng mục mà ông không thực hiện thì tại mục số 3 là do Công ty Hoàng V tự ý kêu ghe bơm cát lên công trình nhưng không thông báo cho ông biết; mục số 4 ông không thực hiện là đúng; các hạng mục theo thứ tự mục 39, 40, 162, 163 ông không thực hiện là do Công ty Hoàng V không cung cấp vật tư mà tự kêu đơn vị thi công khác thực hiện không thông qua đơn vị thi công của ông; các hạng mục từ mục thứ tự số 167 đến 182 ông không thực hiện do các hạng mục này không nằm trong hợp đồng và Công ty Hoàng V đã thuê nhân công khác thực hiện. Các hạng mục ngoài hợp đồng mà ông không thi công là đúng nhưng về giá nhân công được tính theo giá dự thầu là không đúng mà phải dựa vào giá dự toán công trình.
Tuy nhiên, đối với việc thực hiện và không thực hiện các hạng mục công trình theo lời khai trên của ông Nguyễn Chí L thì không được các bên ràng buộc với nhau về trách nhiệm trong hợp đồng khoán việc ngày 26/6/2020. Về giá nhân công thì theo Hợp đồng khoán việc các bên xác định là giá cố định và căn cứ vào khối lượng thi công thực tế nhân với đơn giá hợp đồng. Đối với khối lượng phát sinh ngoài hồ sơ phê duyệt hai bên sẽ thương thảo giá để thực hiện. Kết quả thực hiện thi công thì tuy các bên không có sự nhiệm thu sau khi thực hiện và nhất là khi tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, khối lượng thi công được các bên xác định việc hoàn thành theo từng hạng mục cụ thể và các hạng mục này đều được xác định đơn giá nhân công cụ thể theo Hợp đồng thi công số: 16/2020/HĐXD ngày 22/6/2020 kèm theo Phụ lục hợp đồng ngày 22/6/2020; Hợp đồng khoán việc ngày 26/6/2020 và Phụ lục Hợp đồng ngày 02/10/2020. Từ đó, các hạng mục trong hợp đồng và các hạng mục phát sinh ngoài hợp đồng mà ông Nguyễn Chí L không thực hiện thi công thì ông Nguyễn Chí L không được trả tiền nhân công là hoàn toàn phù hợp.
Về giá nhân công thì tại các hạng mục thực hiện trong hợp đồng được quy định đúng theo giá nhân công trong Hợp đồng thi công số: 16/2020/HĐXD ngày 22/6/2020 kèm theo Phụ lục hợp đồng ngày 22/6/2020 và các bên đã tự nguyện ký kết Hợp đồng khoán việc ngày 26/6/2020 dựa trên giá nhân công được quy định trong Hợp đồng thi công số: 16/2020/HĐXD và Phụ lục hợp đồng kèm theo. Các hạng mục phát sinh ngoài hợp đồng khoán việc thì khi các bên thỏa thuận để thực hiện các hạng mục này giữa Công ty Hoàng V và ông Nguyễn Chí L không có thương thảo cụ thể về giá mà các bên mặc nhiên thực hiện theo giá nhân công được quy định tại các hạng mục trong hợp đồng. Bên cạnh đó, các hạng mục này cũng đã được phê duyệt về giá nhân công tại “Phụ lục Hợp đồng ngày 02/10/2020”.
Ngoài ra, xét về giá trị các hạng mục công trình kể cả giá nhân công khi quyết toán công trình phải dựa vào giá trị được đơn vị thi công lập khi dự thầu, trúng thầu và được cấp có thẩm quyền phê duyệt, nên yêu cầu của ông Nguyễn Chí L về áp giá nhân công theo hồ sơ dự toán là không có căn cứ để chấp nhận.
Theo sự thừa nhận của các bên, các hạng mục mà ông Nguyễn Chí L không thực hiện thi công theo “Phụ lục hợp đồng ngày 22/6/2020” và “Hợp đồng khoán việc ngày 26/6/2020” có tổng giá trị tiền nhân công bằng 71.571.000 đồng (theo phụ lục hợp đồng là 72.168.293 đồng). Các hạng mục ngoài hợp đồng không thực hiện theo phụ lục hợp đồng ngày 02/10/2020 có tổng giá trị tiền nhân công bằng 103.368.297 đồng. Từ đó, cấp sơ thẩm đã trừ đi phần tiền nhân công của các hạng mục mà ông Nguyễn Chí L không thực hiện trong tổng số tiền nhân công mà Công ty Hoàng V phải trả cho ông Nguyễn Chí L là phù hợp. Trong đó, phần nhân công của các hạng mục trong hợp đồng là 328.765.572 đồng, các hạng mục ông Nguyễn Chí L không thực hiện là 71.571.000 đồng (theo phụ lục hợp đồng là 72.168.293 đồng), đối trừ phần không thực hiện thì Công ty Hoàng V phải trả cho ông Nguyễn Chí L 257.194.572 đồng, nhưng tại cấp sơ thẩm Công ty Hoàng V chấp nhận trả cho ông Nguyễn Chí L 257.255.000 đồng và đã trả được 260.000.000 đồng, thừa 2.745.000 đồng. Phần phát sinh theo phụ lục hợp đồng ngày 02/10/2020 có giá trị nhân công là 230.457.842 đồng nhưng Công ty Hoàng V chấp nhận ở số tiền công là 233.491.200 đồng, đối trừ tiền công các hạng mục mà ông Nguyễn Chí L không thực hiện là 103.368.297 đồng, Công ty Hoàng V phải trả 130.122.903 đồng và đã trả 120.000.000 đồng, còn nợ 10.122.903 đồng. Đối trừ phần trong hợp đồng và phần phát sinh thì Công ty Hoàng V còn phải tiếp tục trả cho ông Nguyễn Chí L 7.377.903 đồng. Trong các khoản tiền công nêu trên có sự chênh lệch giữa hồ sơ dự thầu và sự thừa nhận của Công ty Hoàng V nhưng sự chênh lệch số tiền không lớn và hoàn toàn có lợi cho ông Nguyễn Chí L. Công ty Hoàng V xác định là do Công ty làm tròn số trong cách tính và Công ty Hoàng V chấp nhận theo xác định của án sơ thẩm, không kháng cáo.
[4] Từ các nhận định trên, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Chí L. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 252/2022/DS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.
[5] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau là phù hợp nên chấp nhận.
[6] Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Nguyễn Chí L phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định chung.
[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của ông Nguyễn Chí L. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 252/2022/DS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.
2. Căn cứ các Điều 274, 275, 280, 513, 519 của Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
2.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Chí L. Buộc Công ty TNHH Xây dựng Hoàng V tiếp tục thanh toán cho ông Nguyễn Chí L số tiền nhân công còn lại là 7.377.903 đồng (Bảy triệu ba trăm bảy mươi bảy nghìn chín trăm lẽ ba đồng). Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Chí L về số tiền nhân công còn lại là 147.937.696 đồng (Một trăm bốn mươi bảy triệu chín trăm ba mươi bảy nghìn sáu trăm chín mươi sáu đồng).
Kể từ ngày ông Nguyễn Chí L có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong số tiền phải trả thì hàng tháng Công ty TNHH Xây dựng Hoàng V còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
2.2. Công ty TNHH Xây dựng Hoàng V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 369.000 đồng. Ông Nguyễn Chí L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 7.397.000 đồng, được đối trừ số tiền tạm ứng án phí là 4.179.000 đồng tại biên lai số 0000806, ngày 19/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau, ông Nguyễn Chí L còn phải tiếp tục nộp 3.218.000 đồng.
3. Án phí dân sự phúc thẩm, ông Nguyễn Chí L phải chịu 300.000 đồng được đối trừ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã dự nộp 300.000 đồng tại biên lai thu số 0002059 ngày 06/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau, nay được chuyển thu.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điêù 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
4. Các quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng khoán việc số 89/2023/DS-PT
Số hiệu: | 89/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 22/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về