Bản án về tranh chấp hợp đồng khoán thầu số 22/2020/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 22/2020/DS-ST NGÀY 12/02/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KHOÁN THẦU

Ngày 12 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 459/2019/TLST-DS ngày 04 tháng 10 năm 2019 về việc "Tranh chấp hợp đồng khoán thầu" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 298/2019/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 12 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Mai Quốc K, sinh năm 1966 (Có mặt); Địa chỉ: Ấp 4, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Sử Chí H (có mặt) – Văn phòng luật sư Trần Hoàng H, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Ông Phan Ngọc H, sinh năm 1986 (Vắng mặt) – Giám đốc Công ty TNHHMTV Đầu tư Xây dựng và Dịch vụ Thanh L. Địa chỉ: Ấp T, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Mai Quốc K trình bày: Ngày 07/4/2019, ông Mai Quốc K và ông Phan Ngọc H (Giám đốc Công ty TNHHMTV Đầu tư Xây dựng và Dịch vụ Thanh L, địa chỉ ấp T, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau), có ký hợp đồng giao khoán thi công, công trình mở rộng đường giao thông nông thôn, đoạn đi qua khóm 4, thị trấn Trần Văn Thời, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Hợp đồng hoàn thành là ngày 27/4/2019, thi công hoàn thành 500 mét, phía ông H phải thanh toán 355.000.000 đồng. Nhưng, khi ông K thi công được 521 mét, ông H không thanh toán theo như hợp đồng đã ký. Ông K đã liên hệ nhiều lần yêu cầu ông H thanh toán tiền nhưng ông H cố tình lẫn tránh. Ông K có đơn gửi đến Công an huyện Trần Văn Thời, yêu cầu xử lý ông H. Nhưng, Công an huyện Trần Văn Thời có Công văn số 215 ngày 17/9/2019 xác định giao dịch giữa ông K và ông H là quan hệ dân sự, không có dấu hiệu hình sự. Nay, ông Mai Quốc K khởi kiện yêu cầu ông Phan Ngọc H (Giám đốc Công ty TNHHMTV Đầu tư Xây dựng và Dịch vụ Thanh L) thanh toán số tiền 369.900.000 đồng.

Bị đơn ông Phan Ngọc H (Giám đốc Công ty TNHHMTV Đầu tư Xây dựng và Dịch vụ Thanh L): Khi thụ lý, Tòa án đã thực hiện thủ tục niêm yết công khai các văn bản tố tụng: Thông báo về việc thụ lý vụ án; Các thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Giấy triệu tập; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ; Quyết định hoãn phiên tòa. Nhưng, bị đơn ông Phan Ngọc H vắng mặt, không có văn bản nêu ý kiến gửi đến Tòa án.

Tại phiên tòa, ông yêu cầu ông H trả số tiền 369.900.000 đồng (521 mét x đơn giá 710.000 đồng/mét), đối trừ số tiền 50.000.000 đồng mà ông H đã trả cho ông tại Ủy ban nhân dân thị trấn Trần Văn Thời; số tiền còn lại 319.900.000 đồng; ông yêu cầu ông H phải thanh toán lại cho ông.

Trong phần tranh luận, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời tỉnh Cà Mau phát biếu ý kiến như sau:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã tuân thủ theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm và đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử. Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay các đương sự đã thực hiện đúng các quy định Bộ luật Tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của đương sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Mai Quốc K; Buộc bị đơn ông Phan Ngọc H (Giám đốc Công ty TNHHMTV Đầu tư Xây dựng và Dịch vụ Thanh L) trả cho nguyên đơn ông Mai Quốc K số tiền 319.900.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Ông Phan Ngọc H (Giám đốc Công ty TNHHMTV Đầu tư Xây dựng và Dịch vụ Thanh L), đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, có cơ sở xác định quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là: "Tranh chấp hợp đồng khoán thầu", quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 138; Điều 139, Điều 140, Điều 141; Điều 144 Luật Xây dựng 2003 (được sửa đổi bổ sung năm 2009); Bị đơn có nơi cư trú tại huyện Trần Văn Thời, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, theo điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Căn cứ Hợp đồng giao khoán thi công ngày 07/4/2019, được ký hết giữa ông K và ông H, thì khi ông K thi công đoạn đường giao thông nông thôn, đoạn đi qua khóm 4, thị trấn Trần Văn Thời 500 mét, ông H có trách nhiệm thanh toán cho ông K số tiền 355.000.000 đồng. Thực tế, sau khi ông K đã thi công trên 521 mét và được Hồ Văn Bình (người giám sát công trình thuộc Ủy ban nhân dân thị trấn Trần Văn Thời) xác nhận tại biên bản nghiệm thu công việc xây dựng ngày 23/4/2019; nhưng ông H không thanh toán cam kết trong hợp đồng, cố tình lẫn tránh. Sau đó, ông H có cam kết với ông K tại trang 3 của Hợp đồng giao khoán thi công ngày 07/4/2019, đến ngày 21/5/2019 sẽ trả cho ông K số tiền đã ký kết trong hợp đồng. Do, ông H không thực hiện đúng cam kết tại hợp đồng, ông K có yêu cầu đến Công an huyện Trần Văn Thời; nhưng Công an huyện Trần Văn Thời xác định tranh chấp giữa ông K với ông H là quan hệ dân sự, không có dấu hiệu của tội phạm. Đồng thời, tại Công an huyện Trần Văn Thời, ông H thừa nhận có ký hợp đồng giao khoán thi công, ông K đã thi công trên 500m và chưa thanh toán tiền như đã cam kết trong hợp đồng cho ông K. Ông K xác định, trong quá trình chờ đợi Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời giải quyết vụ án, ông H có trả cho ông được số tiền 50.000.000 đồng. Do, ông H đã vi phạm các cam kết đã ký trong hợp đồng, chưa thanh toán cho ông K số tiền còn lại là 319.900.000 đồng. Nên, ông K khởi kiện yêu cầu ông H thanh toán số tiền còn lại là có cơ sở chấp nhận.

[4] Xét, đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời là có cơ sở, được chấp nhận.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị đơn ông Phan Ngọc H (Giám đốc Công ty TNHHMTV Đầu tư Xây dựng và Dịch vụ Thanh L) phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch số tiền 15.995.000 đồng (319.900.000 đồng x 5% = 15.995.000 đồng). Số tiền 9.250.000 đồng, mà nguyên đơn ông Mai Quốc K đã dự nộp theo biên lai thu số 0002750 ngày 04/10/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, nay được nhận lại.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 244; Điều 157; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Áp dụng: Điều 401 Bộ luật dân sự năm 2015;

Điều 76, Điều 81; Điều 138; Điều 139, Điều 140, Điều 141; Điều 144 Luật Xây dựng năm 2003 (sửa đổi bổ sung năm 2009); Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Mai Quốc K; Buộc bị đơn ông Phan Ngọc H (Giám đốc Công ty TNHHMTV Đầu tư Xây dựng và Dịch vụ Thanh L) trả cho nguyên đơn ông Mai Quốc K số tiền 319.900.000 đồng (Bằng chữ: Ba trăm mười chín triệu chín trăm ngàn đồng). Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người bị thi hành án không thi hành xong khoản tiền trên, người bị thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả.

Về án phí: Buộc bị đơn ông Phan Ngọc H (Giám đốc Công ty TNHHMTV Đầu tư Xây dựng và Dịch vụ Thanh L) phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch số tiền 15.995.000 đồng (Bằng chữ: Mười lăm triệu chín trăm chín mươi lăm ngàn đồng – Chưa nộp). Nguyên đơn ông Mai Quốc K được nhận lại số tiền 9.250.000 đồng (Bằng chữ: Chín triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) theo biên lai thu số 0002750 ngày 04/10/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời.

Án xử sơ thẩm công khai: Nguyên đơn ông Mai Quốc K được quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn ông Phan Ngọc H (Giám đốc Công ty TNHHMTV Đầu tư Xây dựng và Dịch vụ Thanh L) kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng khoán thầu số 22/2020/DS-ST

Số hiệu:22/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:12/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về