Bản án về tranh chấp hợp đồng hụi số 59/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIÊN LƯƠNG - TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 59/2022/DS-ST NGÀY 31/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG HỤI

Ngày 31 tháng 5 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiên Lương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 161/2022/TLST-DS ngày 10 tháng 3 năm 2022 về việc: “Tranh chấp hợp đồng dân sự về hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2022/QĐXXST-DS, ngày 29 tháng 4 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 2/2022/QĐST-DS ngày 13/5/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị KD, sinh năm 1981, có mặt. Địa chỉ: Khu phố XN, thị trấn KL, huyện KL, tỉnh KG.

Bị đơn: La Thị MH, sinh năm 1983, có mặt

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Thanh L, sinh năm 1977, vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Tổ 17, Khu phố XN, thị trấn KL, huyện KL, tỉnh KG.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30/11/2021 và các lời khai tại toà nguyên đơn Bà Nguyễn Thị KD trình bày: Bà La Thị MH có tham gia nhiều dây hụi do bà làm chủ hụi cụ thể như sau:

1/ Dây hụi 05 ngày, loại hụi 2.000.000đ, hụi mở vào ngày 20/6/2019 âm lịch, mãn ngày 20/4/2020 âm lịch, tổng cộng có 61 chân, bà H tham gia 01 chân, bà hốt vào ngày 10/8/2019 âm lịch, đóng hụi đến ngày 05/3/2020 âm lịch vào lần thứ 52 sổ hụi thì không đóng nữa, số tiền bà H còn phải đóng là 61 – 53 = 08 x 2.000.000đ = 16.000.000đ.

2/ Dây hụi 05 ngày, loại hụi 2.000.000đ, hụi mở vào ngày 20/6/2019 âm lịch, mãn ngày 25/4/2020 âm lịch, tổng cộng có 62 chân, bà H tham gia 01 chân, bà hốt vào ngày 29/6/2019 âm lịch, đóng hụi đến ngày 05/3/2020 âm lịch vào lần thứ 52 sổ hụi thì không đóng nữa, số tiền bà H còn phải đóng là 62 – 53 = 09 x 2.000.000đ = 18.000.000đ.

3/ Dây hụi 05 ngày, loại hụi 1.000.000đ, hụi mở vào ngày 15/5/2019 âm lịch, mãn ngày 05/4/2020 âm lịch, tổng cộng có 71 chân, bà H tham gia 01 chân, bà hốt vào ngày 10/6/2019 âm lịch và đóng hụi đến ngày 05/3/2020 âm lịch vào lần thứ 59 sổ hụi thì không đóng nữa, số tiền bà H còn phải đóng là 71 – 60 = 11 x 1.000.000đ = 11.000.000đ.

4/ Dây hụi 05 ngày, loại hụi 1.000.000đ, hụi mở vào ngày 15/5/2019 âm lịch, mãn ngày 10/4/2020 âm lịch, tổng cộng có 72 chân, bà H tham gia 01 chân, bà hốt vào ngày 05/6/2019 âm lịch và đóng hụi đến ngày 05/3/2020 âm lịch vào lần thứ 59 của sổ hụi thì không đóng nữa, số tiền bà H còn phải đóng là 72 – 60 = 12 x 1.000.000đ = 12.000.000đ.

5/ Dây hụi 05 ngày, loại hụi 2.000.000đ, hụi mở vào ngày 16/11/2019 âm lịch, mãn ngày 25/10/2020 âm lịch, tổng cộng có 75 chân, bà H tham gia 01 chân, bà hốt vào ngày 25/11/2019 âm lịch và đóng hụi đến ngày 06/3/2020 âm lịch, khi hụi sổ vào lần thứ 23 sổ hụi thì không đóng nữa, số tiền bà H còn phải đóng là 75 – 24 = 51 x 2.000.000đ = 102.000.000đ.

6/ Dây hụi 05 ngày, loại hụi 2.000.000đ, hụi mở vào ngày 21/11/2019 âm lịch, mãn ngày 05/11/2020 âm lịch, tổng cộng có 76 chân, bà H tham gia 01 chân, bà hốt vào ngày 25/11/2019 âm lịch và đóng hụi đến ngày 06/3/2020 âm lịch, khi hụi sổ vào lần thứ 22 sổ hụi thì không đóng nữa, số tiền bà H còn phải đóng là 75 – 23 = 53 x 2.000.000đ = 106.000.000đ.

Tổng số tiền bà H còn nợ bà số tiền hụi là 265.000.000đ, từ ngày 07/5/2020 đến ngày 09/11/2021 dương lịch bà H có trả cho bà số tiền 77.000.000đ, bà còn nợ lại là 188.000.000đ. Nay bà yêu cầu bà H cùng ông L trả cho tôi số tiền 188.000.000đ và yêu cầu tính lãi theo quy định từ ngày 29/3/2020 cho đến nay.

Tại phiên tòa bị đơn bà La Thị MH trình bày: Bà thừa nhận có nợ tiền hụi của bà D 188.000.000 đồng như phía bà D trình bày nay do hoàn cảnh khó khăn xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi hết nợ và xin không tính lãi.

Tại phiên toà bà trình bày: Việc chơi hụi của bà với bà D là do bà tự chơi không liên quan đến chồng bà nên ông L không biết việc này. Số tiền bà hốt hụi dùng vào mục đích xoay sở làm ăn buôn bán sinh lời và chăm lo cho cuộc sống gia đình.

Toà án đã tiến hành xác minh và niêm yết các văn bản tố tụng đối với ông Nguyễn Thanh L, tuy nhiên cho đến nay ông L không đến Tòa án để giải quyết vụ kiện và cũng không gửi bản tự khai đến Tòa án nên Tòa án không có lời khai của ông L.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu và đề nghị giải quyết vụ kiện như sau: Về tố tụng, việc tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp là đúng thẩm quyền. Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ các quyền cũng như nghĩa vụ của mình khi tham gia giải quyết vụ kiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Tuy nhiên Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng như vẫn vắng mặt và không có văn bản trình bày ý kiến của mình về nội dung việc kiện, do đó Tòa án đưa ra xét xử là đúng pháp luật và bị đơn được thực hiện quyền của mình khi nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ kiện, việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả khoản nợ hụi là có cơ sở, bởi việc này bị đơn cũng thừa nhận nên nguyên đơn khởi kiện là đúng pháp luật. Qua đó đề nghị giải quyết buộc bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan phải có nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn theo yêu cầu, đồng thời bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải chịu án phí theo giá ngạch, hoàn trả án phí tạm nộp cho nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ kiện Tòa án đã tiến hành xác minh, niêm yết thủ tục tố tụng đối với ông Nguyễn Thanh L như hai lần thông báo tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, hai lần xét xử nhưng ông L không đến Tòa án để giải quyết. Tại phiên tòa ông Nguyễn Thanh L vắng mặt Tòa án tiến hành xét xử theo quy định tại Khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS).

[2] Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật: Thẩm quyền giải quyết được quy định tại Khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Kiên Lương. Đây là vụ kiện tranh chấp nợ phát sinh từ hợp đồng dân sự về hụi (họ) nên khi có tranh chấp thì áp dụng Bộ luật dân sự giải quyết.

[3] Về nội dung vụ kiện: bà La Thị MH có tham gia chơi nhiều dây hụi do phía bà Nguyễn Thị KD làm chủ hụi, các dây hụi hiện đã mãn hụi. Phía bà D đã thực hiện đúng nghĩa vụ, giao tiền hụi đầy đủ cho bà H nhưng sau khi nhận tiền hụi bà H không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình là đóng hụi đầy đủ lại chủ hụi, còn nợ tiền hụi là 188.000.000 đồng Tại phiên tòa hôm nay bà D và bà H thống nhất số tiền nợ hụi là 188.000.000 đồng và phía bà D thống nhất không tính lãi suất và yêu cầu bà H phải trả hết số tiền hụi cho bà D.

[4] Xét yêu cầu của bà Nguyễn Thị KD là có cơ sở chấp nhận, bởi bà D khởi kiện có cung cấp chứng cứ chứng minh là các tờ giấy ghi số tiền nợ, việc này bà H cũng thừa nhận còn nợ bà D số tiền 188.000.000 đồng nên bà H có nghĩa vụ trả tiền cho bà D, từ đó xác định giao dịch hụi giữa bà D và bà H là có thật, do bà H vi phạm nghĩa vụ sau khi nhận tiền hụi mà không đóng lại hụi chết cho bà D nên bà D khởi kiện yêu cầu bà H trả tiền là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 471 Bộ luật dân sự.

Xét yêu cầu của bà H xin trả chậm mỗi tháng 1.000.000đ cho đến khi hết nợ. Hội đồng xét xử nhận thấy không có cơ sở xem xét, bởi lẽ phía nguyên đơn không đồng ý và Bộ lụât Dân sự cũng không quy định thời gian trả chậm nếu các đương sự không có thỏa thuận. Phương thức thanh toán nợ như thế nào thuộc thẩm quyền xem xét, giải quyết của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiên Lương.

Việc bà H bà trình bày việc bà tham gia chơi hụi, ông L không biết. Tuy nhiên, qua xác minh bà và ông L có quan hệ là vợ chồng vẫn sống chung trong một gia đình đồng thời tại phiên tòa bà xác nhận sau khi hốt hụi bà dùng tiền vào mục đích làm ăn buôn bán để sinh lời và chăm lo cho cuộc sống của gia đình bà, nên việc giải quyết vụ kiện sẽ liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của ông L, do vậy xác định ông L là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là đúng với quy định tại khoản 4 Điều 68 và Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa bà H thừa nhận nợ và đồng ý trả nợ theo yêu cầu của bà D số tiền 188.000.000 đồng, theo đó buộc bà H và ông L trả cho bà D số tiền 188.000.000 đồng.

5/ Về án phí: Bà La Thị MH và ông Nguyễn Thanh L bị buộc trả số tiền 188.000.000đ nên phải chịu án phí theo quy định. Bà Nguyễn Thị D Kiều được nhận lại án phí tạm nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35; Khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng: Điều 471; Điều 468 Bộ luật Dân sự; Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về hụi, họ, biêu, phường.

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị KD Xử buộc bà La Thị MH và ông Nguyễn Thanh L có nghĩa vụ trả số tiền 188.000.000đ cho bà Nguyễn Thị KD.

Kể từ ngày nguyên đơn có yêu cầu thi hành án nếu người phải thi hành án chậm trả số tiền nêu trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án số tiền lãi theo mức lãi suất được quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2/ Về án phí: Áp dụng Điều 144; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ Ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bà La Thị MH và ông Nguyễn Thanh L phải nộp án phí DSST là 9.400.000đ. Bà Nguyễn Thị KD nhận lại số tiền tạm ứng án phí là 4.700.000đ theo lai thu số 0000139 ngày 10/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiên Lương.

3/ Báo cho các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn luật định 15 ngày kể từ ngày tuyên án (31/5/2022). Ông L vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 kể từ ngày nhận được bán án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng hụi số 59/2022/DS-ST

Số hiệu:59/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiên Lương - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:31/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về