Bản án về tranh chấp hợp đồng hợp tác số 32/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 32/2023/DS-ST NGÀY 12/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG HỢP TÁC

Ngày 12 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 121/2023/TLST-DS ngày 01 tháng 6 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng góp vốn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2023/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Nguyễn Văn V, sinh năm 1969; địa chỉ: tổ D, ấp T, xã N, huyện A, tỉnh An Giang; vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Quốc K, sinh năm 1983; địa chỉ: ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang; có mặt.

Bị đơn: Ông Nguyễn Minh C, sinh năm 1989; địa chỉ: tổ B, ấp G, xã L, huyện T, tỉnh An Giang; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, bản tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Vào khoảng tháng 10/2021, giữa ông Nguyễn Văn V và ông Nguyễn Minh C thỏa thuận góp vốn trồng chanh không hạt. Theo đó, ông V đã góp tiền mặt và trang thiết bị tương đương 186 triệu đồng, bỏ công chăm sóc vườn khoảng 15 tháng tương đương 210 triệu đồng; toàn bộ chi phí còn lại kể cả tiền thuê đất do ông C đóng góp. Việc giao kết góp vốn không lập thành văn bản, không thỏa thuận trả lãi khi thực hiện nghĩa vụ hoàn vốn. Quá trình thực hiện giao kết góp vốn, giữa ông V và ông C không thống nhất ý kiến nên ông C tự ý không cho ông V tiếp tục đóng góp công sức và hợp tác canh tác, thể hiện theo Biên bản hòa giải ngày 16/02/2023 tại Ban ấp G. Theo đơn khởi kiện ngày 15/5/2023, ông V yêu cầu ông C tiếp tục thực hợp đồng góp vốn với ông. Đến ngày 17/7/2023, ông V thay đổi yêu cầu, yêu cầu ông C hoàn số tiền ông V đã góp tổng cộng 396 triệu đồng và tiền lãi kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thanh toán xong với lãi suất theo quy định pháp luật.

Theo biên bản lấy lời khai, lời khai tại phiên hòa giải và tài phiên tòa, ông Nguyễn Minh C trình bày: Thống nhất toàn bộ lời khai của ông V, ông K về việc giao kết, thực hiện hợp tác trồng chanh không hạt. Lý do ông C không cho ông V tiếp tục hợp tác là do quá trình canh tác thiếu hụt vốn nhưng ông V không khả năng góp vốn thêm. Bên cạnh đó, sức khỏe ông V không đảm bảo chăm sóc vườn, con ông V không đồng ý cho ông V tiếp tục hợp tác canh tác với ông. Ông C đồng ý việc rút vốn góp của ông V và nhận trách nhiệm hoàn vốn cho ông V với số tiền 396 triệu đồng, thời điểm thanh toán vào cuối năm 2025 và không đồng ý trả lãi.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu:

- Về việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện đúng quy định Bộ luật Tố tụng dân sự về xác định thẩm quyền, quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng, thời hạn chuẩn bị xét xử, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải. Tuy nhiên, hồ sơ chưa thể hiện giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện, vi phạm Điều 191 BLTTDS năm 2015, tống đạt thông báo thụ lý cho bị đơn trễ hạn 04 ngày vi phạm khoản 1 Điều 196 BLTTDS 2015.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà đúng quy định. Nguyên đơn, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không rõ lý do tại các phiên họp công khai chứng cứ và phiên tòa ngày 18/8/2023, vi phạm Điều 70, 71, 72 BLTTDS.

- Về giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông V, buộc ông C có trách nhiệm trả cho ông V 396 triệu đồng và tiền lãi chậm trả trong giai đoạn thi hành án theo quy định.

Các bên đương sự xác định đã cung cấp đầy đủ chứng cứ cho tòa án, không còn cung cấp thêm chứng cứ nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Theo đơn khởi kiện ngày 15/5/2023, ông V yêu cầu ông C tiếp tục thực hợp đồng góp vốn với ông. Đến ngày 17/7/2023, ông V yêu cầu ông C hoàn số tiền ông V đã góp tổng cộng 396 triệu đồng và tiền lãi chậm trả. Theo quy định tại Điều 5, khoản 4 Điều 70, khoản 2 Điều 71, khoản 2 Điều 210 Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ vào lời khai thống nhất của nguyên đơn và bị đơn có cơ sở xác định, giữa ông V và ông C có thỏa thuận: ông V đóng góp một phần vốn và công sức, phần vốn còn lại do ông C đóng góp để cùng trồng chanh không hạt. Ông V khởi kiện yêu cầu ông C trả tiền, chi phí và công sức đóng góp tương đương 396 triệu đồng. Như vậy, căn cứ Điều 504 Bộ luật Dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp giữa ông V và ông C là tranh chấp hợp đồng hợp tác.

Về nội dung:

[3] Từ lời khai thống nhất giữa nguyên đơn và bị đơn, có cơ sở xác định: Giữa ông V và ông C có thỏa thuận hợp tác góp vốn trồng chanh không hạt, phần vốn góp của ông V bao gồm tiền, chi phí và tiền công chăm sóc là 396 triệu đồng. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp do quá trình hợp tác, ông C tự ý không cho ông V tiếp tục hợp tác. Nhận thấy không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng hợp tác nên ông V yêu cầu ông C hoàn vốn cho ông V và được ông C chấp nhận. Như vậy, giữa ông V và ông C thống nhất ông V rút khỏi hợp đồng hợp tác nên ông V khởi kiện yêu cầu ông C hoàn vốn cho ông V tổng cộng 396 triệu đồng là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 510 Bộ luật Dân sự.

[4] Riêng về các lý do ông C cho rằng không cho ông V tiếp tục cùng ông hợp tác trồng chanh không hạt là không hợp lý. Bởi, việc hợp tác là giữa ông C và ông V nên con ông V không có quyền không cho ông V tiếp tục hợp tác với ông; ông C không chứng minh được sức khỏe của ông V không đáp ứng nổi công việc canh tác; theo lời khai tại Biên bản lấy lời khai ông V ngày 26/6/2023, ông C xác định giữa các bên thỏa thuận ông V có bao nhiêu góp vốn bấy nhiêu và bỏ công chăm sóc vườn, ông C sẽ góp vốn toàn bộ chi phí còn nợ trong quá trình canh tác, nên việc thiếu hụt vốn trong quá trình canh tác không phải trách nhiệm của ông V.

[5] Ông C cho rằng sẽ thanh toán vốn góp cho ông V vào cuối năm 2025. Ý kiến của ông C là ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông V, không được ông V chấp nhận nên không có cơ sở chấp nhận.

[6] Nguyên đơn và bị đơn đều xác định không thỏa thuận việc trả lãi khi phát thanh toán nghĩa vụ hoàn vốn. Nên ông V yêu cầu ông C trả lãi tiền lãi kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thanh toán xong là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông V được chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện nên không phải chịu án phí sơ thẩm, hoàn trả tiền tạm ứng án phí cho ông V. Ông C phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho ông V nên phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 504, 510, 357, 468 Bộ luật Dân sự 2015; khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 147, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn V.

Ông Nguyễn Minh C có trách nhiệm thanh toán cho ông Nguyễn Văn V số tiền 396.000.000 (ba trăm chín mươi sáu triệu) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Nguyễn Văn V được chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện nên không phải chịu án phí sơ thẩm, hoàn trả cho ông V số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí theo Biên lai tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010074 ngày 23/5/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tri Tôn và số tiền 9.900.000 (chín triệu chín trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí theo Biên lai tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010206 ngày 21/7/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tri Tôn.

Ông Nguyễn Minh C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 19.800.000 (mười chín triệu tám trăm nghìn) đồng.

Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ông Nguyễn Văn V và ông Nguyễn Minh C có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng hợp tác số 32/2023/DS-ST

Số hiệu:32/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tri Tôn - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:12/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về