TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 24/2023/DS-PT NGÀY 05/01/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG HỢP TÁC KINH DOANH
Trong ngày 05 tháng 01 năm 2023, tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã mở phiên tòa xét xử công khai đối với vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 320/2022/TLPT-DS ngày 04 tháng 10 năm 2022, về việc: “Tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 188/2022/DS-ST ngày 27 tháng 6 năm 2022 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án số 3393/2022/QĐ-SCBSBA ngày 08/7/2022 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo quyết định đua vụ án ra xét xử phúc thẩm số 6484/2022/QĐ-PT ngày 22/12/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH T4.
Địa chỉ: C T, phường N, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Võ Ngọc T, sinh năm 1956, chức vụ: Giám đốc Địa chỉ: số B T, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn L, sinh năm 1946 và/hoặc bà Trần Thị Vân A, sinh năm 1988 (Theo Giấy ủy quyền ngày 01/12/2022 của Công ty TNHH T4).
- Bị đơn: Bà Nguyễn Ngọc T1, sinh năm 1984 Địa chỉ: Số E, Khu phố B, phường T, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Quang T2, sinh năm 1969 Địa chỉ: 2 T, Phường A, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ liên hệ: 208 Tầng C Chung cư B L, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (Theo văn bản ủy quyền số 002963 ngày 15/2/2017 do Văn phòng C chứng nhận).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn L, sinh năm 1946 2. Bà Võ Ngọc T, sinh năm 1956 Cùng địa chỉ: Số B T, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ liên hệ: A B, phường P, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Võ Ngọc T: Ông Nguyễn L (Theo văn bản ủy quyền số 016508 ngày 13/12/2016 do Văn phòng C1 chứng nhận).
3. Phòng C2 Thành phố Hồ Chí Minh Địa chỉ: 47A Nguyễn Văn Đậu, Phường 6, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Hoàng H, sinh năm 1983 Địa chỉ: 2 D N, Phường F, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Theo văn bản ủy quyền ngày 09/9/2019 của Trưởng phòng công chứng số F Thành phố Hồ Chí Minh).
Người kháng cáo: Ông Phạm Quang T2 là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án:
Những tình tiết, sự kiện các đương sự đã thống nhất:
Chi nhánh K của Công ty TNHH T4 (sau đây gọi tắt là Công ty T4) đặt tại số B T, Phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, theo Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh do Phòng Đăng ký kinh doanh Sở K1 cấp, đăng ký lần đầu ngày 8/8/2001. Căn nhà này là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Nguyễn L và bà Võ Ngọc T theo Giấy phép mua bán nhà số 206/GP - SNĐ do Sở Quản lý Nhà đất Thành phố K1 cấp ngày 17/4/1979, được ông L và bà T cho Công ty T4 mượn để khai thác kinh doanh khách sạn, nhà hàng, du lịch, thời hạn mượn mặt bằng là 10 năm kể từ ngày 1/12/2004, theo Hợp đồng cho mượn nhà để kinh doanh ký kết ngày 26/11/2004 giữa ông L và T (bên A, bên cho mượn) với Công ty T4 (bên B, bên mượn, gọi tắt là Công ty T4), được Phòng Công chứng số 1 Thành phố C2 chứng nhận ngày 20/12/2004, số công chứng 032597, quyển số 13 TP/CC - SCC/HĐGD.
Ngày 26/11/2004, Công ty T4 và bà Lê Thị Mai T3 ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh với nội dung hợp tác là khai thác kinh doanh khách sạn và nhà hàng tại số B T, Quận A trong phạm vi đăng ký kinh doanh của Công ty T4 về khách sạn, nhà hàng và du lịch.
Ngày 9/11/2006, Công ty T4 và bà Nguyễn Ngọc T1 ký kết Bản thỏa thuận quy chế quyền hạn - trách nhiệm của giám đốc chi nhánh có nội dung bà T1 (dự kiến là Giám đốc Chi nhánh K) nhất trí chấp hành theo nội dung bản quy chế hoạt động của Chi nhánh K và cam kết tuân thủ theo những quy định của Bản quy chế.
Ngày 13/11/2006, bà Lê Thị Mai T3, bà Nguyễn Ngọc T1, Công ty T4 ký Giấy nhận tiền, ghi nhận bà T3 đã nhận khoản sang tiền đặt cọc mà bà đã giao cho Công ty T4 và thanh lý hợp đồng hợp tác kinh doanh, bà T1 có trách nhiệm làm những việc liên quan từ 13/11/2006 đối với Công ty T4.
Ngày 20/11/2006, Công ty T4 ( bên A) và bà Nguyễn Ngọc T1 (bên B) ký kết Hợp đồng hợp tác kinh doanh có nội dung chính là bên A và bên B cùng hợp tác để khai thác kinh doanh khách sạn và nhà hàng tại số B T, Phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; thời hạn hợp tác là 05 năm 03 tháng, từ ngày 01/10/2006 đến hết ngày 25/12/2011; phương thức hợp tác là bên A giao cho bên B sử dụng, khai thác mặt bằng và căn nhà số B T, Quận A để kinh doanh khách sạn nhà hàng du lịch, bên B có kế hoạch tổ chức, khai thác mặt bằng nói trên, phát huy tay nghề, kỹ năng quản lý kinh doanh du lịch, nguồn khách hàng và nâng cấp phát huy tiêu chuẩn từ hai sao trở lên; bên B đặt cọc cho bên A 3.202.800.000 đồng tương ứng với 204.000 USD để bảo đảm việc thực hiện hợp đồng; hàng tháng, từ ngày 01 đến 05 dương lịch, bên B thanh toán cho bên A một khoản lợi nhuận không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh, từ ngày 01/10/2006 đến ngày 30/12/2006 số tiền VNĐ tương đương 15.000 USD/tháng, từ ngày 01/01/2007 đến ngày 30/12/2009 số tiền VNĐ tương đương 17.000 USD/tháng, từ ngày 01/01/2010 đến ngày 25/12/2011 số tiền VNĐ tương đương 19.550 USD/tháng; trường hợp bên B không thanh toán đủ và đúng thời hạn cho bên A thì coi như bên B đơn phương chấm dứt hợp đồng và phải chịu mất khoản tiền cọc, hai bên thanh lý hợp đồng, bên B có trách nhiệm bàn giao khách sạn cho bên A trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có văn bản của bên A đề nghị thanh lý. Ngoài ra, hợp đồng còn có các điều khoản về quản lý và phân công trách nhiệm, về trách nhiệm do vi phạm thỏa thuận, về chấm dứt và thanh lý hợp đồng. Hợp đồng hợp tác kinh doanh được Phòng Công chứng số 6 Thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận, số công chứng 12917, quyển số 09 TP/CC - SCC/CK.
Ngày 29/12/2006, Phòng Đăng ký kinh doanh Sở K1 cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh cho Chi nhánh Khách sạn Phong Lan của Công ty T4, với người đứng đầu chi nhánh là bà Nguyễn Ngọc T1.
Thực hiện hợp đồng, Công ty T4 đã bàn giao sổ sách, giấy tờ, con dấu của Chi nhánh K cho bà T1, bà T1 đã thanh toán tiền lợi nhuận cho Công ty T4 đến hết tháng 4/2010.
Ngày 31/5/2010, bà Nguyễn Ngọc T1 có Đơn giải trình (V/v thanh toán chậm tiền khoán của HĐHTKD) gửi Công ty T4. Văn bản này có nội dung chính là trong năm 2009 số tiền khoán mà đại diện chi nhánh phải nộp về cho Công ty T4 không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh là 234.000 USD tương đương 4.446.000.000 đồng, doanh thu là 2.755.373.045 đồng, nên Chi nhánh liên tục thua lỗ trong năm 2009; Chi nhánh vẫn sẽ cố gắng thanh toán cho Công ty T4 từ ngày 01/6/2010 đến ngày 7/6/2010. Đến nay, bà T1 vẫn chưa thanh toán cho Công ty T4 khoản tiền lợi nhuận kinh doanh của tháng 5 và tháng 6/2010.
Ngày 7/7/2010, Công ty S bàn giao mặt bằng và tài sản tại Khách sạn K, B T, Quận A; sự việc được Văn phòng T5 lập Vi bằng số 24/VB - TPL.
Công ty T4 và bà Nguyễn Ngọc T1 đã lập danh sách tài sản bị mất, tài sản tồn tại theo thực tế.
Yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn; ý kiến của Nguyên đơn đối với yêu cầu phản tố của Bị đơn:
Yêu cầu khởi kiện:
Do Bị đơn vị phạm nghĩa vụ thanh toán tiền lợi nhuận tháng 5 và tháng 6/2010, theo khoản 2 Điều 5 hợp đồng hợp tác kinh doanh, nên Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn phải:
- Thanh toán tiền lợi nhuận tháng 5 và tháng 6/2010 là: 390.450.000 đồng + 390.450.000 đồng = 780.900.000 đồng;
- Hoàn trả các khoản tiền sau: Thuế giá trị gia tăng là 6.604.543 đồng; cước điện thoại tháng 05 và tháng 06 năm 2010 là: 5.000.000 đồng; cước internet tháng 05 và tháng 06 năm 2010 là 2.211.000 đồng; tiền điện tháng 05 và tháng 06 năm 2010 là 65.958.169 đồng; tiền thuế truy thu của năm 2007 là 214.000.000 đồng; tiền truy thu, thu hồi thuế tại Quyết định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế số 1253/QĐ-CCT ngày 04/09/2020 là 27.243.683 đồng;
- Bồi thường: giá trị tài sản bị mất là 787.070.000 đồng; giá trị tài sản bị hư hại không sửa được là 216.520.000 đồng;
- Trả lại các văn bản, tài sản liên quan đến Chi nhánh K gồm: Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm; Giấy chứng nhận đã đăng ký mẫu dấu; Giấy chứng nhận đủ điều kiện về phòng cháy chữa cháy; Quyết định của Giám đốc Sở K1 về việc công nhận hạng khách sạn; Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh cho Chi nhánh K và con dấu của Chi nhánh K.
Nguyên đơn rút yêu cầu Bị đơn bàn giao sổ sách thuế của các năm 2008, 2009, 2010 và những tháng giữa năm 2011, gồm: hóa đơn đầu ra, hóa đơn đầu vào, báo cáo thuế giá trị gia tăng, quyết toán tài chính, sổ sách thống kê tài sản cố định, chi phí chờ phân bổ, hợp đồng lao động, bảng lương, sổ phụ ngân hàng, chứng từ phiếu thu - phiếu chi và rút yêu cầu Bị đơn quyết toán thuế Chi nhánh K từ năm 2006 đến năm 2010.
Với các căn cứ và lập luận như sau:
- Về nội dung, hợp đồng hợp tác kinh doanh là hợp đồng có hiệu lực, tuân thủ đúng quy định tại khoản 16 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005. Về hình thức, hợp đồng hợp tác kinh doanh được công chứng viên Phòng Công chứng số 6 chứng nhận. Do đó, hợp đồng hợp tác kinh doanh có đủ các điều kiện để một giao dịch dân sự được xem là có hiệu lực, quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2005.
- Trong thời gian hợp tác kinh doanh, Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ quy định tại khoản 2.1 Điều 2 của hợp đồng hợp tác kinh doanh, khiến Công ty T4 bị tổn thất nên Bị đơn phải có nghĩa vụ hoàn trả các khoản truy thu thuế mà Nguyên đơn đã thực hiện với cơ quan thuế.
- Về giá trị tài sản bị mất, bị hư hại, tại thời điểm ký kết hợp đồng, Nguyên đơn đã có biên bản bàn giao tài sản cho Bị đơn. Khi nhận bàn giao mặt bằng, Nguyên đơn đã mời Thừa phát lại Quận A lập vi bằng về những tài sản bị mất, tài sản bị hư hại. Theo yêu cầu của Tòa án nhân dân Quận 1, Nguyên đơn đã đóng tiền cho Công ty Cổ phần T6, và đã lên danh sách tài sản thay thế, tài sản thẩm định giá. Do sự thiếu phối hợp của bà T1 nên đến thời điểm hiện tại thủ tục này vẫn chưa thực hiện xong, nên Nguyên đơn không có lỗi. Biên bản định giá tài sản Khách sạn Phong Lan ngày 24/07/1992 của Ban Vật giá và Sở X là căn cứ đối chiếu xem xét. Do đó, yêu cầu khởi kiện buộc bị đơn phải trả lại giá trị tài sản bị mất, bị hư hại là: 787.070.000 và 216.520.000, là chính đáng và hợp lý.
Ý kiến đối với yêu cầu phản tố của Bị đơn:
- Tại Bản cam kết ngày 14/6/2010, Bị đơn đã cam kết đến ngày 20/6/2010 sẽ tiến hành bàn giao khách sạn, nếu không thực hiện đúng thì Nguyên đơn được quyền tiếp quản, kiểm kê tài sản của Khách sạn K. Đến ngày 20/6/2010, Bị đơn vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán là vi phạm điểm b, d, e khoản 2.1 Điều 2 hợp đồng hợp tác kinh doanh. Căn cứ Điều 4 hợp đồng hợp tác kinh doanh, Bị đơn phải bị mất cọc.
- Bị đơn cho rằng do các bên thỏa thuận thanh toán bằng ngoại tệ nên hợp đồng hợp tác kinh doanh vô hiệu. Theo Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì nếu trong hợp đồng các bên có thỏa thuận giá cả, thanh toán bằng ngoại tệ, trong khi đó một hoặc các bên không được thanh toán bằng ngoại tệ, nhưng thực tế các bên đã thanh toán cho nhau bằng Việt Nam đồng thì không bị coi là vô hiệu. Tất cả các phiếu thu từ tháng 12 năm 2006 đến tháng 4 năm 2010, các bên nhận về tiền cọc đều thể hiện rõ các bên thanh toán với nhau bằng Việt Nam đồng. Do đó, lập luận của Bị đơn là không có cơ sở chấp nhận.
Yêu cầu phản tố của Bị đơn; ý kiến của Bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn:
Yêu cầu phản tố:
Bị đơn thống nhất với quan điểm, lập luận của Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Bị đơn về việc cho rằng hợp đồng hợp tác kinh doanh bị vô hiệu do giả tạo và vi phạm điều cấm của pháp luật, do hai bên ký kết hợp đồng này nhằm che giấu hợp đồng thuê nhà và do nội dung hợp đồng có điều khoản đặt cọc, thanh toán bằng ngoại tệ là vi phạm quy định của Pháp lệnh Ngoại hối. Về tiền cọc, trên các văn bản được lập giữa Nguyên đơn, Bị đơn và bà Lê Thị Mai T3 ghi nhận bằng Việt Nam đồng nhưng thực tế Bị đơn phải trả cho bà T3 204.000 USD. Do đó, Bị đơn yêu cầu tuyên bố hợp đồng hợp tác kinh doanh vô hiệu; buộc Nguyên đơn phải hoàn lại cho Bị đơn tiền cọc đã nhận là 204.000 USD, thanh toán bằng tiền Việt Nam đồng, theo tỷ giá trung bình của Ngân hàng TMCPN.
Bị đơn rút lại yêu cầu Nguyên đơn trả lại trang thiết bị, vật dụng cá nhân, gồm: 01 máy lọc nước; 03 máy lạnh; 01 két sắt; 01 tủ đông; 01 tủ lạnh.
Ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn:
- Chấp nhận thanh toán và hoàn trả các khoản tiền sau: Tiền lợi nhuận tháng 5 và tháng 6/2010 là: 390.450.000 đồng + 390.450.000 đồng = 780.900.000 đồng; thuế giá trị gia tăng là 6.604.543 đồng; cước điện thoại tháng 05 và tháng 06 năm 2010 là: 5.000.000 đồng; cước internet tháng 05 và tháng 06 năm 2010 là 2.211.000 đồng; tiền điện tháng 05 và tháng 06 năm 2010 là 65.958.169 đồng; tiền thuế truy thu của năm 2007 là 214.000.000 đồng; tiền truy thu, thu hồi thuế tại Quyết định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế số 1253/QĐ-CCT ngày 04/09/2020 là 27.243.683 đồng;
- Chấp nhận trả những giấy tờ pháp lý gồm: Giấy phép đăng ký kinh doanh của Chi nhánh K; Giấy công nhận sao; Giấy phép mua bán rượu và thuốc lá; Giấy chứng nhận mẫu dấu và con dấu của Chi nhánh K.
- Chấp nhận bồi thường tài sản bị mất, bị hư hại, nhưng Nguyên đơn phải đưa ra mức giá hợp lý. Nếu Nguyên đơn không đưa ra mức giá hợp lý thì Bị đơn chấp nhận bồi thường tài sản bị mất theo loại và giá trị tài sản đã được hai bên thống nhất theo Danh sách tài sản bị thiệt hại tại Khách sạn K, tối đa không vượt quá 300.000.000 đồng; Bị đơn không chấp nhận bồi thường tài sản bị hư hại theo mức giá Nguyên đơn đưa ra.
Ý kiến của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Võ Ngọc T và Nguyễn L:
Thống nhất với yêu cầu khởi kiện, ý kiến trình bày của Nguyên đơn.
Ý kiến của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phòng C2 Thành phố Hồ Chí Minh:
Việc chứng nhận hợp đồng hợp tác kinh doanh của công chứng viên Phòng C2 đã thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực và các văn bản hướng dẫn thi hành. Việc tại phần lời chứng của công chứng viên có ghi ông Nguyễn L và bà Nguyễn Ngọc T1 đã ký văn bản này trước sự có mặt của công chứng viên, phục vụ cho việc làm hợp đồng giao dịch, để cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật, là đúng với trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Phòng Công chứng số 6 Thành phố C2 đề nghị vắng mặt tại tất cả các phiên hòa giải, đối chất, xét xử của Tòa án nhân dân các cấp.
Trình bày của Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Bị đơn:
- Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố hợp đồng hợp tác kinh doanh vô hiệu với các căn cứ sau:
+ Đây không phải là hợp tác kinh doanh, vì không có sự phân chia lợi nhuận, chia sẻ rủi ro, mà hàng tháng Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn một khoản tiền cố định để được kinh doanh khách sạn, nhà hàng tại địa chỉ B T, Quận A, nên đây là hợp đồng thuê nhà. Các bên ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh là để che giấu hợp đồng thuê nhà. Do đó, đây là giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo.
+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh có điều khoản đặt cọc, thanh toán bằng ngoại tệ là vi phạm quy định của Pháp lệnh Ngoại hối. Trong hợp đồng, hai bên thỏa thuận thanh toán bằng tiền Việt Nam đồng nhưng không nêu rồ căn cứ vào tỷ giá nào. Các phiếu thu tiền ghi số tiền Bị đơn thanh toán hàng tháng bằng tiền Việt Nam đồng là không chính xác, vì thực tế là thanh toán bằng USD. Do đó, hợp đồng hợp tác kinh doanh vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật.
+ Ngoài ra, tuy không phải là căn cứ để yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, nhung về thủ tục công chứng, hợp đồng hợp tác kinh doanh có những điểm vi phạm như: ghi Bị đơn giới tính nam thay vì giới tính nữ; công chứng viên không chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của giao dịch; công chứng vào ngày 19/6/2010 nhưng lại ghi thời điểm có hiệu lực vào ngày 01/10/2006 là không đúng quy định của Luật Công chứng.
Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Quận 1:
- Thẩm phán chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
- Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo đúng trình tự thủ tục quy định tại các Điều 237, 239, 250, 260 và đảm bảo nguyên tắc công khai, độc lập khách quan, trực tiếp bằng lời nói quy định tại các Điều 12, 14, 15, 16 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
- Các đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71, 72 và nội quy phiên tòa tại Điều 234 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
- Đề nghị chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn;
- Đề nghị không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 188/2022/DS-ST ngày 27 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ vào: Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm g khoản 1 Điều 40, điểm d khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 khoản 1, khoản 1 Điều 244, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 2 Điều 358, khoản 5 Điều 422, Điều 428, điểm b khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 4, khoản 5 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009; Luật Thi hành án dân sự, Tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử đối với các yêu cầu của Nguyên đơn về:
- Yêu cầu bà Nguyễn Ngọc T1 bàn giao sổ sách thuế của các năm 2008, 2009, 2010 và những tháng giữa năm 2011, gồm: hóa đơn đầu ra, hóa đơn đầu vào, báo cáo thuế giá trị gia tăng, quyết toán tài chính, sổ sách thống kê tài sản cố định, chi phí chờ phân bổ, hợp đồng lao động, bảng lương, sổ phụ ngân hàng, chứng từ phiếu thu - phiếu chi;
- Yêu cầu bà Nguyễn Ngọc T1 quyết toán thuế Chi nhánh K từ năm 2006 đến năm 2010.
2. Chấp nhận các yêu cầu sau của Nguyên đơn:
- Chấm dứt hợp đồng Hợp tác kinh doanh ký ngày 20/11/2006 giữa Công ty TNHH T4 và bà Nguyễn Ngọc T1.
- Buộc bà Nguyễn Ngọc T1 phải:
+ Thanh toán cho Công ty TNHH T4 lợi nhuận kinh doanh của tháng 05 và tháng 06 năm 2010 là 780.900.000 đồng;
+ Hoàn trả cho Công ty TNHH T4 các khoản tiền sau: Thuế giá trị gia tăng là 6.604.543 đồng; cước điện thoại tháng 05 và tháng 06 năm 2010 là 5.000.000 đồng; cước internet tháng 05 và tháng 06 năm 2010 là 2.211.000 đồng; tiền điện tháng 05 và tháng 06 năm 2010 là 65.958.169 đồng; tiền thuế truy thu của năm 2007 là 214.000.000 đồng; tiền truy thu, thu hồi thuế tại Quyết định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế số 1253/QĐ-CCT ngày 04/09/2020 là 27.243.683 đồng;
+ Hoàn trả cho Công ty TNHH T4: Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm; Giấy chứng nhận đã đăng ký mẫu dấu; Giấy chứng nhận đủ điều kiện về phòng cháy chữa cháy; Quyết định của Giám đốc Sở K1 về việc công nhận hạng khách sạn; Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh cho Chi nhánh K và con dấu của Chi nhánh K.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu của Nguyên đơn về việc yêu cầu bà Nguyễn Ngọc T1 bồi thường giá trị tài sản bị mất:
Buộc bà Nguyễn Ngọc T1 bồi thường cho Công ty TNHH T4 giá trị tài sản bị mất là 244.785.000 đồng.
4. Không chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH T4 về việc yêu cầu bà Nguyễn Ngọc T1 bồi thường giá trị tài sản bị hư hại là 216.520.000 đồng.
5. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của Bị đơn về việc yêu cầu Công ty TNHH T4 trả lại trang thiết bị, vật dụng cá nhân, gồm: 01 máy lọc nước, 03 máy lạnh, 01 két sắt, 01 tủ đông, 01 tủ lạnh.
6. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Bị đơn về việc:
Yêu cầu tuyên bố Hợp tác kinh doanh ký ngày 20/11/2006 giữa Công ty TNHH T4 và bà Nguyễn Ngọc T1 vô hiệu; Công ty TNHH T4 trả lại số tiền đặt cọc tương đương 204.000 USD.
7. Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
8. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Nguyễn Ngọc T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 170.236.712 đồng nhưng được trừ vào các khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án của Chi Cục Thi hành án Dân sự Quận 1 gồm: 48.028.000 đồng theo biên lai số 037245 ngày 10/8/2010; 200.000 đồng theo biên lai số 007990 ngày 14/8/2019. Bà T1 còn phải nộp thêm 122.008.712 đồng.
Công ty TNHH T4 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 36.517.400 đồng, nhưng được trừ vào các khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án của Chi Cục Thi hành án Dân sự Quận 1 gồm: 15.750.200 đồng theo biên lai số 037077 ngày 23/6/2010; 22.011.700 đồng theo biên lai số 037311 ngày 16/9/2010; 2.912.000 đồng theo biên lai số 0008030 ngày 20/ 8/2019. H1 lại cho Công ty TNHH T4 số tiền chênh lệch là 4.156.500 đồng.
9. Công ty TNHH T4, bà Nguyễn Ngọc T1, ông Nguyễn L, bà Võ Ngọc T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Phòng Công chứng số 6 Thành phố C2 có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Ngày 15/7/2022, ông Phạm Quang T2 là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Nguyễn Ngọc T1 kháng cáo một phần bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn và ông Phạm Quang T2 là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Nguyễn Ngọc T1 đề nghị giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và yêu cầu phản tố, cụ thể như sau:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày 20/11/2006 giữa Công ty TNHH T4 với bà Nguyễn Ngọc T1 được Phòng C2, Thành phố Hồ Chí Minh chứng thực là vô hiệu với các lý do:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh giao kết xác định hiệu lực hợp đồng lại phát sinh trước ngày ký hợp đồng công chứng. Do đó không xác định được thời điểm có hiệu lực của hợp đồng nên bị vô hiệu do bị nhầm lẫn theo Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2005;
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh không có lời chứng trước các bên của Công chứng viên;
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh niêm yết thanh toán bằng ngoại tệ (USD) là vi phạm điều cấm của pháp luật tại Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005 nên Hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005;
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh nhưng thực tế hợp đồng này là hợp đồng thuê nhà, do đó vô hiệu do giả tạo theo Điều 129 bộ luật dân sự 2005.
Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm, phía bị đơn có ý kiến cho rằng vụ án có liên quan đến yếu tố nước ngoài vì trong quá trình hoạt động kinh doanh khách sạn, có sự điều hành, quản lý trực tiếp từ các cá nhân người Hàn Quốc.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn và ông Phạm Quang T2 là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Nguyễn Ngọc T1 đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo sửa án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn buộc công ty S1 thu trả lại cho bị đơn toàn bộ số tiền cọc là 3.000.000.000 đồng tương đương 204.000 USD.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện nguyên đơn không đồng ý kháng cáo của bị đơn, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn L và bà Võ Ngọc T không đồng ý kháng cáo của bị đơn, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Phòng C2, Thành phố Hồ Chí Minh có văn bản xin xét xử vắng mặt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên Tòa phát biểu ý kiến:
Về chấp hành pháp luật tố tụng dân sự: Chủ tọa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị đơn được làm và nộp trong hạn luật định nên được chấp nhận và xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Xét nội dung kháng cáo của bị đơn là không có căn cứ nên không có cơ sở chấp nhận. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Ngọc T1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã động viên hòa giải, các bên đương sự cũng đã có thời gian tự thương lượng, hòa giải nhưng không thành.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
Ngày 27/6/2022 Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm và tuyên án vụ án. Bị đơn có người đại diện theo ủy quyền là ông Phạm Quang T2 nộp đơn kháng cáo bản án vào ngày 15/7/2022 là còn trong thời hạn theo quy định tại Điều 271, 272, 273 Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, đơn kháng cáo của bị đơn được chấp nhận xem xét tại cấp phúc thẩm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là Phòng C2, Thành phố Hồ Chí Minh xin vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
[1] Xét yêu cầu kháng cáo về việc bị đơn cho rằng Hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa Công ty TNHH T4 với bà Nguyễn Ngọc T1 ngày 20/11/2006 được Phòng C2, Thành phố Hồ Chí Minh chứng thực là vô hiệu:
- Căn cứ Hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày 20/11/2006 được Phòng C2, Thành phố Hồ Chí Minh chứng thực, có đóng dân giáp lai từng trang, có lời chứng của Công chứng viên. Tuy nhiên, nội dung lời chứng thực chỉ ghi nhầm giới tính của bà Nguyễn Ngọc T1. Lỗi này không làm thay đổi nội dung và bản chất hợp đồng. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo cho rằng hợp đồng không có lời chứng thực của Công chứng viên.
- Căn cứ Hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày 20/11/2006 được Phòng C2, Thành phố Hồ Chí Minh chứng thực, xác định hợp đồng có hiệu lực kể từ ngày 01/10/2006. Việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được các bên giao kết thỏa thuận là đúng quy định tại Điều 405 Bộ luật dân sự 2005. Do đó, yêu cầu kháng cáo của bị đơn về việc cho rằng hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn là không có cơ sở nên không được chấp nhận.
- Căn cứ Hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày 20/11/2006 được Phòng C2, Thành phố Hồ Chí Minh chứng thực, thể hiện các bên đã giao kết và trong thực tế có trả tiền, phân chia lợi nhuận bằng tiền đồng Việt Nam, không có chứng cứ thể hiện các bên thanh toán, trả tiền cho nhau bằng ngoại tệ (USD). Vì vậy, việc đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật của cấp sơ thẩm là đúng pháp luật. Do đó, yêu cầu kháng cáo của bị đơn về việc cho rằng hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật là không có cơ sở nên không được chấp nhận.
- Căn cứ các tài liệu, chứng cứ, lời khai của các bên đương sự có trong hồ sơ vụ án thể hiện, sau khi ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh với công ty T4, bà Nguyễn Ngọc T1 đã được bổ nhiệm làm giám đốc khách sạn K trực thuộc công ty T4 và hoạt động đúng quy định pháp luật về thành lập doanh nghiệp, có đóng thuế theo quy định. Phía bị đơn không có tài liệu chứng cứ chứng minh rằng bà T1 thuê nhà của công ty T4 hoặc thuê nhà của bà T và ông L là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn cho rằng hợp đồng hợp tác kinh doanh là giả tạo để che giấu hợp đồng thuê nhà.
[2] Xét tại tại phiên tòa phúc thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng vụ án có liên quan đến yếu tố nước ngoài nhưng không kháng cáo cũng như không có chứng cứ chứng minh nên Hội đồng xét xử không giải quyết. Đối với những nội dung và quyết định khác của bản án sơ thẩm đã tuyên, bị đơn không kháng cáo nên hội đồng xét xử không xem xét.
Từ những phân tích và nhận định nêu trên, cũng như đề nghị của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa, xét thấy kháng cáo của bị đơn không có căn cứ nên không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo. Áp dụng Khoản 1, Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điều 293; Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự;
- Căn cứ Pháp lệnh án phí và lệ phí Tòa án năm 2009;
- Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Ngọc T1 có người đại diện theo ủy quyền là ông Phạm Quang T2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 188/2022/DS-ST ngày 27 tháng 6 năm 2022 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án số 3393/2022/QĐ-SCBSBA ngày 08/7/2022 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Đình chỉ xét xử đối với các yêu cầu của Nguyên đơn về:
- Yêu cầu bà Nguyễn Ngọc T1 bàn giao sổ sách thuế của các năm 2008, 2009, 2010 và những tháng giữa năm 2011, gồm: hóa đơn đầu ra, hóa đơn đầu vào, báo cáo thuế giá trị gia tăng, quyết toán tài chính, sổ sách thống kê tài sản cố định, chi phí chờ phân bổ, hợp đồng lao động, bảng lương, sổ phụ ngân hàng, chứng từ phiếu thu - phiếu chi;
- Yêu cầu bà Nguyễn Ngọc T1 quyết toán thuế Chi nhánh K từ năm 2006 đến năm 2010.
2. Chấp nhận các yêu cầu sau của Nguyên đơn:
- Chấm dứt hợp đồng Hợp tác kinh doanh ký ngày 20/11/2006 giữa Công ty TNHH T4 và bà Nguyễn Ngọc T1.
- Buộc bà Nguyễn Ngọc T1 phải:
+ Thanh toán cho Công ty TNHH T4 lợi nhuận kinh doanh của tháng 05 và tháng 06 năm 2010 là 780.900.000 đồng;
+ Hoàn trả cho Công ty TNHH T4 các khoản tiền sau: Thuế giá trị gia tăng là 6.604.543 đồng; cước điện thoại tháng 05 và tháng 06 năm 2010 là 5.000.000 đồng; cước internet tháng 05 và tháng 06 năm 2010 là 2.211.000 đồng; tiền điện tháng 05 và tháng 06 năm 2010 là 65.958.169 đồng; tiền thuế truy thu của năm 2007 là 214.000.000 đồng; tiền truy thu, thu hồi thuế tại Quyết định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế số 1253/QĐ-CCT ngày 04/09/2020 là 27.243.683 đồng;
+ Hoàn trả cho Công ty TNHH T4: Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm; Giấy chứng nhận đã đăng ký mẫu dấu; Giấy chứng nhận đủ điều kiện về phòng cháy chữa cháy; Quyết định của Giám đốc Sở K1 về việc công nhận hạng khách sạn; Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh cho Chi nhánh K và con dấu của Chi nhánh K.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu của Nguyên đơn về việc yêu cầu bà Nguyễn Ngọc T1 bồi thường giá trị tài sản bị mất:
Buộc bà Nguyễn Ngọc T1 bồi thường cho Công ty TNHH T4 giá trị tài sản bị mất là 244.785.000 đồng.
4. Không chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH T4 về việc yêu cầu bà Nguyễn Ngọc T1 bồi thường giá trị tài sản bị hư hại là 216.520.000 đồng.
5. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của Bị đơn về việc yêu cầu Công ty TNHH T4 trả lại trang thiết bị, vật dụng cá nhân, gồm: 01 máy lọc nước, 03 máy lạnh, 01 két sắt, 01 tủ đông, 01 tủ lạnh.
6. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Bị đơn về việc:
Yêu cầu tuyên bố Hợp tác kinh doanh ký ngày 20/11/2006 giữa Công ty TNHH T4 và bà Nguyễn Ngọc T1 vô hiệu; Công ty TNHH T4 trả lại số tiền đặt cọc tương đương 204.000 USD.
7. Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
8. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Nguyễn Ngọc T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 170.236.712 đồng nhưng được trừ vào các khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án của Chi Cục Thi hành án Dân sự Quận 1 gồm: 48.028.000 đồng theo biên lai số 037245 ngày 10/8/2010; 200.000 đồng theo biên lai số 007990 ngày 14/8/2019. Bà T1 còn phải nộp thêm 122.008.712 đồng.
Công ty TNHH T4 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 36.517.400 đồng, nhưng được trừ vào các khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án của Chi Cục Thi hành án Dân sự Quận 1 gồm: 15.750.200 đồng theo biên lai số 037077 ngày 23/6/2010; 22.011.700 đồng theo biên lai số 037311 ngày 16/9/2010; 2.912.000 đồng theo biên lai số 0008030 ngày 20/ 8/2019. H1 lại cho Công ty TNHH T4 số tiền chênh lệch là 4.156.500 đồng. H1 lại cho Công ty TNHH T4 số tiền 681.092 đồng theo biên lai số 0030811 ngày 14/5/2021.
9. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Ngọc T1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) bà T1 đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai số 0006125 ngày 15/7/2022 tại Chi cục T7 hành án dân sự Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh số 24/2023/DS-PT
Số hiệu: | 24/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 05/01/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về