Bản án về tranh chấp hợp đồng hợp tác bán hàng số 69/2021/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH B

BẢN ÁN 69/2021/ DS-ST NGÀY 06/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG HỢP TÁC BÁN HÀNG

Trong ngày 06 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 119/2021/TLST- DS ngày 18 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng hợp tác bán hàng” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2021/QĐST-DS ngày 01 tháng 7 năm 2021, quyết định hoãn phiên tòa số 78/2021/QĐST-DS ngày 20/7/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Quang Đ, sinh năm: 1988 (xin vắng mặt) Địa chỉ: Số 16, ngõ 2, đường Nguyễn Quốc Trị, khối HP, phường HP, thành phố V, tỉnh NA Người đại diện theo ủy Q: Ông Hoàng Quang Q, sinh năm: 1973 (xn vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà 31, ngõ 267, đường Phùng Khoang, tổ dân phố số 5, phường Trung Văn, quận NTL, thành phố Hà Nội

2. Bị đơn: Công ty cổ phần LMTD Việt Nam Địa chỉ: N24, khu dân cư sỹ quan Quân đoàn 2, đường Hoàng Văn Thụ, phường Dĩnh kế, thành phố B, tỉnh B Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn C - chức vụ: Tổng giám đốc (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 14/4/2021, bản tự khai ngày 29/5/2021 do nguyên đơn và các lời khai tiếp theo do người đại diện theo ủy Q của nguyên đơn trình bày: Ngày 26/11/2014 giữa anh Nguyễn Quang Đ và Công ty cổ phần LMTD Việt Nam có địa chỉ: N24, khu dân cư sỹ quan Quân đoàn 2, đường Hoàng Văn Thụ, phường Dĩnh kế, thành phố B, tỉnh B, do đại diện là ông Nguyễn Văn C - chức vụ tổng giám đốc đã ký kết hợp đồng hợp tác bán hàng số 0080289/HĐ-LMTD, theo hợp đồng anh Đ là cộng tác viên của công ty. Sau khi ký hợp đồng, anh đăng ký mua của công ty 102 gói hàng chủ yếu là cao hồng sâm, mỗi gói trị giá 9.888.000 đồng. Tổng số tiền anh đã nộp cho công ty là 1.008.576.000 đồng (Một tỷ không trăm linh tám triệu năm trăm bảy mươi sáu nghìn đồng), công ty đã xuất cho anh 102 phiếu đặt hàng và viết cho anh 04 phiếu thu tiền, cụ thể: phiếu thu ngày 26/11/2014 nộp 25.350.000 đồng; Phiếu thu ngày 30/6/2015 nộp 207.648.000 đồng; Phiếu thu ngày 13/7/2015 nộp 98.880.000 đồng; Phiếu thu ngày 21/9/2015 nộp 672.384.000 đồng. Sau khi đặt hàng, anh đã lấy được 4 mã sản phẩm hồng sâm và công ty đã thu lại 04 phiếu đặt hàng. Ngày 23/9/2016, công ty yêu cầu anh nộp lại 37 phiếu đặt hàng rồi đưa cho anh đơn tự nguyện xin gửi hàng hóa với tổng 37 mã hàng và có ghi tên nhiều sản phẩm như cao hồng sâm, dầu cá, can xi. Sau đó, nhiều lần anh đến công ty lấy hàng nhưng công ty nói không có hàng. Ngày 07/11/2016 công ty đã bị thu hồi giấy phép do vi phạm nghị định 42 của Bộ công thương và bị xử phạt 409.000.000 đồng. Anh đã nhiều lần yêu cầu công ty thanh lý hợp đồng và trả lại cho anh số tiền của 98 phiếu đặt hàng đã nộp, nhưng công ty không trả. Nay anh yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố B buộc công ty cổ phần LMTD Việt Nam phải trả lại cho anh số tiền đã nộp tương ứng với số hàng cao hồng sâm anh đã mua của công ty gồm: 61 phiếu đặt hàng x 9.888.000 đồng = 603.168.000 đồng và 37 mã hàng anh đã gửi tương ứng với số tiền 365.856.000 đồng. Tổng cộng anh yêu cầu phải trả là 969.024.000 đồng (Chín trăm sáu mươi chín triệu không trăm hai mươi bốn nghìn đồng). Anh không yêu cầu trả tiền lãi, đề nghị Tòa án cho vắng mặt khi xét xử.

Bị đơn Công ty cổ phần LMTD Việt Nam có địa chỉ đăng ký theo giấy phép đăng ký kinh doanh tại N24, khu dân cư sỹ quan Quân đoàn 2, đường Hoàng Văn Thụ, phường Dĩnh kế, thành phố B, tỉnh B, người đại diện theo pháp luật là ông Nguyễn Văn C - chức vụ: Tổng giám đốc. Tòa án đã thực hiện việc thông báo thụ lý vụ án, gửi giấy triệu tập đến làm việc, song qua kết quả xác minh tại địa phương nơi công ty có trụ sở đang ký thì công ty vẫn đăng ký địa chỉ trụ sở làm việc tại địa chỉ trên, nhưng đến nay không có người làm việc. Phòng đăng ký kinh doanh thuộc sở kế hoạch đầu tư tỉnh B tại công văn số 13/CV-ĐKKD ngày 28/01/2021 xác định “Cho đến thời điểm hiện nay tình trạng công ty trên cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp Quốc Gia là “đang hoạt động”. Công ty chưa có hồ sơ giải thể hay phá sản nộp ở cơ quan đăng ký kinh doanh. Hiện nay công ty cũng đang bị ngăn chặn không cho thực hiện thủ tục thay đổi đăng ký kinh doanh theo yêu cầu của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B tại công văn số 1406/CV - THADS ngày 09/12/2019”. Vì lý do trên, Tòa án thực hiện việc niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi có trụ sở của bị đơn theo quy định của pháp luật. Người đại diện hợp pháp của bị đơn không đến Tòa án làm việc, không có lời khai, văn bản nêu ý kiến quan điểm hay giao nộp bất cứ tài liệu, chứng cứ gì gửi Tòa án.

Tòa án đã thu thập các tài liệu chứng cứ tại Phòng đăng ký kinh doanh thuộc sở kế hoạch đầu tư tỉnh B và được cung cấp các tài liệu, chứng cứ là bản sao giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần lần đầu và các lần thay đổi từ lần thứ nhất đến lần thứ 12, công văn thông báo tình trạng hoạt động của doanh nghiệp.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn, người đại diện theo ủy Q của nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, đại diện của bị đơn vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử đã thực hiện đầy đủ theo quy định của pháp luật. Bị đơn đã được tống Đ hợp lệ nhưng không đến Tòa án làm việc, không tham gia phiên tòa, HĐXX xét xử vụ án theo quy định tại điều 227, 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự là đúng pháp luật.

Về nội dung tranh chấp: Đề nghị Tòa án căn cứ điều 274, Điều 275, Điều 280, 504, 510, 512 của Bộ luật dân sự chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc Công ty cổ phần LMTD Việt Nam trả cho anh Nguyễn Quang Đ số tiền tương ứng đã nộp mua 98 mã sản phẩm cao hồng sâm trị giá 969.024.000 đồng (Chín trăm sáu mươi chín triệu không trăm hai mươi bốn nghìn đồng). Về tiền lãi không đặt ra xem xét giải quyết. Về án phí bị đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa sau khi tiến hành nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Đơn khởi kiện của của anh Nguyễn Quang Đ cùng các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án hợp lệ, đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về hình thức và nội dung đơn khởi kiện.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành trình tự thủ tục tố tụng giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ Q, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được tống Đ hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng không đến làm việc. Tại phiên tòa, nguyên đơn và người đại diện theo ủy Q có đơn xin vắng mặt, đại diện hợp pháp của bị đơn vắng mặt không có lý do tại phiên tòa lần thứ nhất ngày 20/7/2021 và phiên tòa lần thứ hai ngày 06/8/2021, Tòa án căn cứ quy định tại các điều 227, 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vụ án.

[3].Về quan hệ pháp luật, thẩm Q giải quyết vụ án: Giữa công ty cổ phần LMTD Việt Nam và anh Nguyễn Quang Đ đã ký kết hợp đồng hợp tác bán hàng số 0080289/HĐ-LM ngày 26/11/2014. Trên cơ sở của hợp đồng, anh Đ đã nộp tiền để đặt mua 102 mã hàng cao hồng sâm nhưng chỉ được giao 04 mã hàng, còn lại 98 mã hàng hóa đã nộp tiền nhưng đến nay công ty vẫn chưa giao đủ số hàng đã mua. Anh Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc công ty cổ phần LMTD Việt Nam trả lại số tiền đã mua hàng, đây là quan hệ pháp luật giữa một cá nhân không có đăng ký kinh doanh với doanh nghiệp có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh về bán hàng đa cấp, do đó HĐXX xác định đây là tranh chấp về hợp đồng hợp tác bán hàng theo quy định của Bộ luật dân sự. Bị đơn có trụ sở tại thành phố B, nên vụ án thuộc thẩm Q giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B theo qui định tại khoản 3 điều 26; Điểm a khoản 1 điều 35; Điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[4]. Về nội dung tranh chấp:

Xét yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Quang Đ: Lời khai của nguyên đơn xác định anh đã mua của công ty Cổ phần LMTD Việt Nam 102 mã sản phẩm cao hồng sâm, với trị giá 9.888.000 đồng/01 mã sản phẩm, tổng số tiền anh đã nộp cho công ty là 1.008.576.000 đồng (Một tỷ không trăm linh tám triệu năm trăm bảy mươi sáu nghìn đồng). Việc nộp tiền đặt mua hàng đã được công ty ghi vào các phiếu thu, các phiếu đặt hàng và giao lại cho anh. Sau khi đã nộp tiền mua hàng, anh đã được công ty cổ phần LMTD Việt Nam trả cho 04 gói hồng sâm, công ty đã thu lại 04 phiếu đặt hàng. Số hàng hóa còn lại là 98 mã sản phẩm tương ứng số tiền là 969.024.000 đồng (Chín trăm sáu mươi chín triệu không trăm hai mươi bốn nghìn) chưa trả. Xét các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn giao nộp cho thấy: Tại phiếu thu số 17, Q số 20 ngày 26/11/2014, ghi người nộp tiền anh Nguyễn Quang Đ với nội dung mua hàng hóa (03 gói) quangdat 01,02, 03 số tiền nộp 25.350.000 (hai lăm triệu ba trăm năm mươi ngàn) đồng (tương đương với giá trị 8.450.000 đồng/01 gói); Phiếu thu số 06, quyển số 157 ngày 30/6/2015 ghi người nộp tiền anh Nguyễn Quang Đ, mua 21 gói (Quangdat 4-24), số tiền nộp 207.648.000 đồng (tương đương với giá trị là 9.888.000 đồng/01 gói); Phiếu thu ngày 13/7/2015 ghi người nộp tiền Nguyễn Quang Đ mua 10 gói (Quangdat 25 -33 + Quangdat 3), số tiền nộp 98.880.000 (chín mươi tám triệu tám trăm tám mươi nghìn) đồng (tương đương với giá trị là 9.888.000 đồng/01 gói); Phiếu thu số 05, Q số 176 ngày 21/9/2015 ghi người nộp tiền Nguyễn Quang Đ, mua hàng (68 gói) Quang Đ 34 - 101, số tiền nộp 672.384.000 (sáu trăm bẩy mươi hai triệu ba trăm tám mươi bốn nghìn) đồng (tương đương với giá trị là 9.888.000 đồng/01 gói). Như vậy, theo các phiếu thu tiền trên thì tổng số tiền anh Đ đã nộp để mua hàng là: 1.004.082.000 (một tỷ không trăm linh bốn triệu, không trăm tám mươi hai nghìn) đồng chứ không phải là 1.008.576.000 (Một tỷ không trăm linh tám triệu năm trăm bảy mươi sáu nghìn) đồng như anh Đ trình bày. Đối với các tài liệu khác anh Đ đã nộp là 61 phiếu đặt hàng ghi ngày 21/9/2021, với mỗi phiếu là 01 mã hàng hóa, đơn giá 9.888.000 đồng/01gói sản phẩm và 01 đơn tự nguyện gửi hàng hóa ghi ngày 23/9/2016 ghi số hàng hóa anh Đ gửi lại kho công ty là 37 gói sản phẩm, gồm CordyA+ 10 gói sản phẩm, Calsoft 10 gói sản phẩm, Cao hồng sâm 19 gói sản phầm. Như vậy, xác định số hàng hóa anh Đ gửi lại công ty và chưa được trả là 98 gói sản phẩm hàng hóa với đơn giá là 9.888.000 đồng/01 sản phẩm, tổng trị giá trị là 969.024.000 đồng (chín trăm sáu mươi chín triệu không trăm hai mươi bốn nghìn) đồng. Bị đơn là Công ty cổ phần LMTD Việt Nam không có văn bản hay tài liệu, chứng cứ nào khác phản bác ý kiến, yêu cầu của nguyên đơn. Do đó, có thể xác định cho đến nay bị đơn vẫn chưa trả cho anh Nguyễn Quang Đ 98 gói sản phẩm hàng hóa trị giá 969.024.000 đồng (chín trăm sáu mươi chín triệu không trăm hai mươi bốn nghìn) đồng mà anh Đ đã đặt đã mua.

Tại quyết định số 252/QĐ-QLCT ngày 03/10/2016 của cục quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương về việc xử lý vụ việc cạnh tranh đối với Công ty cổ phần LMTD Việt Nam thì Công ty cổ phần LMTD Việt Nam đã bị áp dụng hình phạt bổ sung và biện pháp khắc phục là thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 36 Nghị định 71/2014/NĐ-CP. Nay, anh Nguyễn Quang Đ khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả lại số tiền tương ứng với số sản phẩm đã đặt mua chưa được trả hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 2 điều 16 Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ quy định về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp và điểm c khoản 2 điều 9 Thông tư số 24/2014/TT-BCT ngày 30/7/2014 quy định chi tiết một số điều của nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ, do đó HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Quang Đ.

[5]. Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Nguyên đơn không phải chịu án phí nên được hoàn trả tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[6]. Về Q kháng cáo: Các đương sự có Q kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 274, Điều 275, Điều 280 điều 504, điều 510, điều 512 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 16 của Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp;

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147; Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Quang Đ.

Buộc Công ty cổ phần LMTD Việt Nam phải trả anh Nguyễn Quang Đ số tiền 969.024.000 đồng (chín trăm sáu mươi chín triệu không trăm hai mươi bốn nghìn) đồng.

2. Về án phí: Bị đơn Công ty cổ phần LMTD Việt Nam phải chịu 41.070.000 (bốn mươi mốt triệu không trăm bẩy mươi nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

3. Hoàn trả anh Nguyễn Quang Đ số tiền tạm ứng án phí đã nộp 20.535.000 (hai mươi triệu năm trăm ba mươi lăm nghìn) đồng tại biên lai thu số AA/2018/0002073 ngày 11/5/2021 của chi cục thi hành án dân sự thành phố B.

4. Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có Q chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

5. Về Q kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có Q kháng cáo bản án tính từ ngày nhận được bản án tống Đ hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có Q thoả thuận thi hành án, Q yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

477
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng hợp tác bán hàng số 69/2021/DS-ST

Số hiệu:69/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về