TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH B
BẢN ÁN 124/2021/DS-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG HỢP TÁC BÁN HÀNG
Trong ngày 24/9/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 103/2021/TLST-DS ngày 11/05/2021 về “Tranh chấp về hợp đồng hợp tác bán hàng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/2021/QĐXXST - DS ngày 24/8/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 143/2021/QĐST-DS ngày 08/9/2021 giữa:
1. Nguyên đơn: Ông Trần Kim Đ, sinh năm 1961 Địa chỉ: Số 77, tổ 28, phường K, quận Đống Đa, TP.HN.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Hoàng Quang Q, sinh năm 1973; Địa chỉ: Số nhà 31, ngõ 267 N, tổ dân phố số 5, phường T, quận Nam Từ Liêm, thành phố HN.
(Ông Đ, ông Q đều có đơn xin xét xử vắng mặt)
2. Bị đơn: Công ty Cổ phần LMTDVN.
Địa chỉ: Lô 24, khu dân cư sỹ quan, Quân đoàn X, đường H kéo dài, phường Dĩnh Kế, thành phố B, tỉnh B.
Đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Văn C; chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.
(Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Trần Kim Đ và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Hoàng Quang Q thống nhất trình bày:
Qua người quen giới thiệu, ông Đ biết đến Công ty Cổ phần LMTDVN, được cung cấp những tài liệu liên quan đến Công ty: Giấy phép đã được Bộ y tế - Cục an toàn vệ sinh thực phẩm chứng nhận, được hưởng chương trình tri ân có khuyến mãi cao lại không rủi ro. Do tin tưởng vừa được mua sản phẩm sử dụng bảo vệ sức khỏe cho các thành viên trong gia đình và được hưởng các chương trình tri ân hấp dẫn nên ngày 02/4/2014, ông Đ tham gia ký kết hợp đồng hợp tác bán hàng số 061153/HĐ-LMTD với Công ty cổ phần LMTDVN.
Sau khi ký hợp đồng, ông Đ đã mua của công ty 166 gói hàng (chủ yếu là sản phẩm sâm và phân vi sinh), giá mỗi gói sản phẩm là 6.800.000 đồng hoặc 8.450.000 đồng hoặc 9.888.000 đồng (tùy thời điểm lấy hàng). Tổng cộng số tiền ông Đ đã nộp vào Công ty Cổ phần LMTDVN là 1.390.969.000 đồng. Sau khi mua hàng và nộp tiền vào công ty, công ty có đưa cho ông Đ 166 hóa đơn kiêm phiếu xuất kho.
Ông Đ đã lấy và sử dụng 58 gói sản phẩm và nộp lại cho công ty 58 hóa đơn kiêm phiếu xuất kho. Hiện Công ty chưa trả ông Đ 108 gói hàng. Số tiền ông Đ nộp vào mua hàng của Công ty Cổ phần LMTDVN là tiền riêng của ông Đ, không liên quan đến thành viên nào trong gia đình. Đối với những nhân viên (kế toán, thủ kho, người viết phiếu) của Công ty cổ phần LMTDVN mà ông Đ đã từng gặp, làm việc thì ông không nhớ họ tên là gì, năm sinh bao nhiêu, địa chỉ ở đâu và đề nghị Tòa án không triệu tập những người này tham gia tố tụng trong vụ án.
Kể từ ngày nộp tiền mua các sản phẩm trên đến nay, ông Đ chưa được nhận bất cứ tri ân nào. Tại bản tự khai ngày 18/05/2021, ông Đ trình bày đã nhận được tiền hoa hồng nhưng không nhớ số tiền bao nhiêu là do ông Đ nhớ nhầm.
Đến năm 2018, ông Đ phát hiện ra ngày 11/7/2016 Công ty cổ phần LMTDVN đã bị rút giấy phép kinh doanh bán hàng đa cấp do vi phạm Nghi định 42 của Bộ công thương và bị xử phạt 409 triệu đồng cộng với hàng ngàn đơn thư khiếu kiện của các cộng tác viên trên 54 thị trường.
Ông Đ yêu cầu Công ty Cổ phần LMTDVN phải trả cho ông Đ số tiền 794.814.000 đồng tương đương 108 gói hàng đã mua nhưng chưa được trả sản phẩm. Ngoài ra ông Đ không còn yêu cầu khởi kiện nào khác.
Tại Biên bản xác minh ngày 25/12/2020, đại diện phường Dĩnh Kế, thành phố B, tỉnh B cung cấp như sau: Công ty cổ phần LMTDVN vẫn đăng ký trụ sở tại địa chỉ N24, khu dân cư sỹ quan, Quân đoàn 2, đường Hoàng Văn Thụ kéo dài, phường Dĩnh Kế, thành phố B, tỉnh B. Công ty không có hoạt động sản xuất kinh doanh gì và không còn treo biển hiệu tại địa chỉ trên, không có nhân viên để nhận văn bản, hiện công ty khác đã thuê lại để đặt trụ sở.
Tòa án đã niêm yết Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải....nhưng đại diện của Công ty cổ phần LMTDVN không đến Tòa án làm việc và cung cấp bất cứ tài liệu, chứng cứ gì.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có thu thập tài liệu chứng cứ từ các vụ án khác do Cục Quản lý cạnh tranh nay là Cục cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng- Bộ Công thương cung cấp cho Tòa án tài liệu liên quan đến Công ty cổ phần LMTDVN, bao gồm:
- Bản sao hồ sơ cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp của Công ty.
- Bản sao hồ sơ sửa đổi, bổ sung giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp của Công ty.
- Bản sao Quyết định số 252/QĐ-QLCT ngày 03/10/2016 của Cục Quản lý cạnh tranh về việc xử lý vụ việc cạnh tranh đối với Công ty. Trong Quyết định có nội dung: Công ty Cổ phần LMTDVN không làm thủ tục sửa đổi, bổ sung Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp khi có thay đổi, bổ sung liên quan đến Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp, vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 10, Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp; Công ty đã thực hiện hành vi ký Hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp không bao gồm đầy đủ thông tin theo quy định của pháp luật, vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 24 Nghị định 42/2014/NĐ-CP; Công ty đã thực hiện hành vi ký Hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp với cá nhân không đủ điều kiện tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật, vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 19- Nghị định 42/2014/NĐ-CP; Công ty đã thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ đào tạo cơ bản đối với người tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 20- Nghị định 42/2014/NĐ-CP; Công ty đã thực hiện hành vi duy trì nhiều hơn một vị trí kinh doanh đa cấp, hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp, mã số kinh doanh đa cấp hoặc các hình thức khác tương đương đối với một người tham gia bán hàng đa cấp, vi phạm quy định tại điểm p khoản 1 Điều 5 Nghị định 42/2014/NĐ-CP. Công ty đã vi phạm các quy định của Nghị định 42 về bán hàng đa cấp và quá trình hoạt động bán hàng đa cấp, Công ty đã có nhiều sai phạm nên Cục quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương đã ra Quyết định xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh đối với Công ty. Ngoài hình thức phạt tiền, Cục quản lý cạnh tranh còn áp dụng hình phạt bổ sung và biện pháp khắc phục là “Áp dụng hình thức xử phạt bổ sung Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 36 Nghị định 71/2014/NĐ-CP”, Công ty cổ phần LMTDVN không còn tư cách về mặt chủ thể để tham gia bán hàng đa cấp.
* Ngày 08/9/2021, Tòa án mở phiên tòa lần thứ nhất nhưng do đại diện theo pháp luật của bị đơn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa.
* Ngày 20/9/2021, nguyên đơn có bản tự khai bổ sung, thay đổi lại yêu cầu khởi kiện như sau: yêu cầu Công ty Cổ phần LMTDVN phải trả cho ông số tiền 765.150.000 đồng tương đương 105 gói hàng đã mua nhưng chưa được trả sản phẩm. Đối với 03 gói sản phẩm tương đương số tiền 29.664.000 đồng do ông Đ không cung cấp được đủ 02 Liên của 03 hóa đơn phiếu xuất kho số 182023, số 182022, số 182021 ngày 20/4/2015 nên không đề nghị Tòa án giải quyết trong vụ án này nữa.
Tại phiên tòa hôm nay: Đại diện theo pháp luật của bị đơn tiếp tục vắng mặt không lý do. Nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình thụ lý, giải quyết và xét xử vụ án. Nguyên đơn, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật Tố tụng dân sự. Đại diện theo pháp luật của bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật Tố tụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của của ông Trần Kim Đ, buộc Công ty cổ phần LMTDVN phải trả cho ông số tiền 765.150.000 đồng.
Về án phí: Công ty cổ phần LMTDVN phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Hoàn trả ông Đ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
- Kiến nghị, khắc phục vi phạm: Không
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Đại diện theo pháp luật của bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do; nguyên đơn và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng là phù hợp với quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngày 02/4/2014, Công ty cổ phần LMTDVN và ông Trần Kim Đ đã ký Hợp đồng hợp tác bán hàng số 061153/HĐ-LMTD, thời gian là 01 năm và có hiệu lực pháp lý kể từ thời điểm hai bên ký kết. Căn cứ hợp đồng trên, ông Đ có nộp tiền mua hàng của Công ty cổ phần LMTDVN nhưng đến nay chưa được giao đủ số hàng đã mua. Ông Đ đã đòi nhiều lần nhưng Công ty chưa trả. Các bên không tự giải quyết được tranh chấp nên ông Đ khởi kiện ra Tòa án. Quan hệ tranh chấp giữa ông Đ với Công ty cổ phần LMTDVN là quan hệ dân sự giữa cá nhân không có giấy phép đăng ký kinh doanh với pháp nhân có giấy phép đăng ký kinh doanh về bán hàng đa cấp. Đây là “Tranh chấp về hợp đồng dân sự (cụ thể là tranh chấp hợp đồng hợp tác bán hàng”. Bị đơn Công ty cổ phần LMTDVN có địa chỉ trụ sở tại Lô 24, khu dân cư sỹ quan, Quân đoàn 2, đường Hoàng Văn Thụ kéo dài, phường Dĩnh Kế, thành phố B, tỉnh B nên Tòa án nhân dân thành phố B thụ lý giải quyết yêu cầu của ông Đ là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3]. Về việc thay đổi thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo bản tự khai bổ sung ngày 20/9/2021(giảm số tiền buộc Công ty cổ phần LMTDVN phải trả): Việc thay đổi yêu cầu khởi kiện không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận theo khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[4]. Xét yêu cầu khởi kiện của ông Đ về việc buộc Công ty cổ phần LMTDVN phải trả 765.150.000 đồng (giá trị 105 gói hàng đã mua):
[4.1] Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ do ông Trần Kim Đ cung cấp, có căn cứ xác định: Ngày 02/4/2014, ông Đ ký Hợp đồng hợp tác bán hàng số 061153/HĐ-LMTD với Công ty cổ phần LMTDVN - trong thời gian Công ty được phép hoạt động bán hàng đa cấp. Ông Đ đã mua của công ty 166 gói hàng (chủ yếu là sản phẩm Cao hồng sâm và phân vi sinh), giá mỗi gói sản phẩm là 6.880.000 đồng hoặc 8.450.000 đồng hoặc 9.888.000 đồng (tùy thời điểm lấy hàng). Tổng cộng số tiền ông Đ đã nộp vào Công ty Cổ phần LMTDVN là 1.390.969.000 đồng. Ông Đ đã lấy và sử dụng 58 gói sản phẩm và nộp lại cho công ty 58 hóa đơn kiêm phiếu xuất kho.
[4.2]. Ngày 03/10/2016, cục quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương có Quyết định về việc xử lý vụ việc cạnh tranh số 252/QĐ-QLCT đối với Công ty cổ phần LMTDVN. Tại Quyết định trên thì Công ty cổ phần LMTDVN đã bị áp dụng hình phạt bổ sung và biện pháp khắc phục là thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 36 Nghị định 71/2014/NĐ- CP.
[4.3]. Ông Đ yêu cầu Công ty cổ phần LMTDVN phải trả 765.150.000 đồng tương đương giá trị của 105 gói hàng đã nộp tiền mua nhưng chưa được Công ty trả hàng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp và điểm c khoản 2 Điều 9 Thông tư số 24/2014/TT-BCT ngày 30/07/2014 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp. Do vậy Hội đồng xét xử nhận thấy cần chấp nhận yêu cầu trên của ông Đ.
[5] Về án phí: Yêu cầu của ông Đ được chấp nhận nên Công ty cổ phần LMTDVN phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Hoàn trả ông Đ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 274, Điều 275, Điều 280 của Bộ luật Dân sự; khoản 2 Điều 16 của Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp;
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 244, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử:
1. Buộc Công ty cổ phần LMTDVN phải trả ông Trần Kim Đ số tiền 765.150.000 đồng.
2. Về án phí: Công ty cổ phần LMTDVN phải chịu 34.606.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả ông Đ số tiền 17.896.280 đồng là tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo biên lai số AA/2018/0002077 ngày 11/5/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B.
3. Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
5. Về hướng dẫn thi hành án dân sự: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7, 7a, 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 - Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng hợp tác bán hàng số 124/2021/DS-ST
Số hiệu: | 124/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 24/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về