Bản án về tranh chấp hợp đồng hợp tác bán hàng số 123/2021/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 123/2021/DS-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG HỢP TÁC BÁN HÀNG

Trong ngày 24/9/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 127/2021/TLST-DS ngày 31/05/2021 về “Tranh chấp về hợp đồng hợp tác bán hàng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 136/2021/QĐXXST - DS ngày 24/8/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 142/2021/QĐST-DS ngày 08/9/2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị D, sinh năm 1958 Địa chỉ: Xóm 4, xã Liên C, thành phố Phủ Lý, tỉnh HN.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: ông Nguyễn Văn C – sinh năm 1944 Địa chỉ: Thôn Mậu Chử, xã Thanh Hà, huyện TL, tỉnh HN. (Ông C xin vắng mặt)

2. Bị đơn: Công ty Cổ phần LMTDVN.

Địa chỉ: Lô 24, khu dân cư sỹ quan, Quân đoàn 2, đường Hoàng Văn Thụ kéo dài, phường Dĩnh Kế, thành phố B, tỉnh B.

Đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Văn C; chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

(Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Phạm Thị D và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Văn C thống nhất trình bày:

Qua người quen giới thiệu, bà D biết đến Công ty Cổ phần LMTDVN, được cung cấp những tài liệu liên quan đến Công ty: Giấy phép đã được Bộ y tế - Cục an toàn vệ sinh thực phẩm chứng nhận, được hưởng chương trình tri ân có khuyến mãi cao lại không rủi ro. Do tin tưởng vừa được mua sản phẩm sử dụng bảo vệ sức khỏe cho các thành viên trong gia đình và được hưởng các chương trình tri ân hấp dẫn nên ngày 13/3/2015, bà D tham gia ký kết hợp đồng hợp tác bán hàng số 0077097/HĐ-LMTD với Công ty cổ phần LMTDVN. Cùng ngày ký hợp đồng, bà D đã mua của công ty 02 gói hàng (chủ yếu là sản phẩm Cao hồng sâm), giá mỗi gói sản phẩm là 8.450.000 đồng. Tổng cộng số tiền bà D đã nộp vào Công ty Cổ phần LMTDVN là 16.900.000 đồng. Sau khi mua hàng và nộp tiền vào công ty, công ty có đưa cho bà D 02 phiếu đặt hàng. Số tiền bà D nộp vào mua hàng của Công ty Cổ phần LMTDVN là tiền riêng của bà D, không liên quan đến thành viên nào trong gia đình.

Kể từ khi mua hàng đến nay, bà D đã nhiều lần đến công ty để yêu cầu được nhận 02 gói sản phẩm mà bà đã nộp tiền ngày 13/2/2015 nhưng bà D vẫn chưa được công ty trả hàng. Ngày 31/3/2016, Công ty yêu cầu bà D nộp lại 02 phiếu đặt hàng và viết cho bà D 01 đơn đề nghị tự nguyện gửi hàng hóa. Đến nay, bà D mới được trả một lần tiền hoa hồng là 650.000 đồng (theo phiếu chi lương tháng 4 năm 2015).

Người giới thiệu bà D tham gia ký kết hợp đồng hợp tác bán hàng với Công ty cổ phần LMTDVN là bà Lê Thị Loan, sinh năm 1959 có địa chỉ tại tổ 9, phường Hai Bà Trưng, thành phố Phủ Lý, tỉnh HN. Bà D đã được Tòa án thông báo Biên bản làm việc của Công an phường Hai Bà Trưng, thành phố Phủ Lý, tỉnh HN đã cung cấp thông tin: Tại tổ 9, phường Hai Bà Trưng, thành phố Phủ Lý không có ai tên là Lê Thị Loan sinh năm 1959. Tuy nhiên, ngoài địa chỉ trên của bà Loan, bà D không cung cấp được cho Tòa án địa chỉ nào khác.

Đối với những nhân viên (kế toán, thủ kho, người viết phiếu) của Công ty cổ phần LMTDVN mà bà D đã từng gặp, làm việc thì bà D không nhớ họ tên là gì, năm sinh bao nhiêu, địa chỉ ở đâu nên đề nghị Tòa án không triệu tập những người này tham gia tố tụng trong vụ án. Đối với bà Lê Thị Loan, do bà D không cung cấp được địa chỉ nào khác nên cũng đề nghị Tòa án không đưa bà Loan vào tham gia tố tụng.

Đến năm 2018, bà D phát hiện ra ngày 11/7/2016 Công ty cổ phần LMTDVN đã bị rút giấy phép kinh doanh bán hàng đa cấp do vi phạm Nghi định 42 của Bộ công thương và bị xử phạt 409 triệu đồng cộng với hàng ngàn đơn thư khiếu kiện của các cộng tác viên trên 54 thị trường.

Bà D giữ nguyên yêu cầu Công ty cổ phần LMTDVN trả cho bà số tiền 16.250.000 đồng. Ngoài ra bà D không còn yêu cầu khởi kiện nào khác.

Tại Biên bản xác minh ngày 25/12/2020, đại diện phường Dĩnh Kế, thành phố B, tỉnh B cung cấp như sau: Công ty cổ phần LMTDVN vẫn đăng ký trụ sở tại địa chỉ N24, khu dân cư sỹ quan, Quân đoàn 2, đường Hoàng Văn Thụ kéo dài, phường Dĩnh Kế, thành phố B, tỉnh B. Công ty không có hoạt động sản xuất kinh doanh gì và không còn treo biển hiệu tại địa chỉ trên, không có nhân viên để nhận văn bản, hiện công ty khác đã thuê lại để đặt trụ sở.

Tòa án đã niêm yết Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải....nhưng đại diện của Công ty cổ phần LMTDVN không đến Tòa án làm việc và cung cấp bất cứ tài liệu, chứng cứ gì.

Tại Biên bản làm việc ngày 01/7/2021, đại diện Công an phường Hai Bà Trưng, thành phố Phủ Lý, tỉnh HN cung cấp như sau: Qua kiểm tra hồ sơ nhân khẩu lưu trú tại tổ 9, phường Hai Bà Trưng, thành phố Phủ Lý, tỉnh HN không có ai tên là Lê Thị Loan, sinh năm 1959.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có thu thập tài liệu chứng cứ từ các vụ án khác do Cục Quản lý cạnh tranh nay là Cục cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng- Bộ Công thương cung cấp cho Tòa án tài liệu liên quan đến Công ty cổ phần LMTDVN, bao gồm:

- Bản sao hồ sơ cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp của Công ty.

- Bản sao hồ sơ sửa đổi, bổ sung giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp của Công ty.

- Bản sao Quyết định số 252/QĐ-QLCT ngày 03/10/2016 của Cục Quản lý cạnh tranh về việc xử lý vụ việc cạnh tranh đối với Công ty. Trong Quyết định có nội dung: Công ty Cổ phần LMTDVN không làm thủ tục sửa đổi, bổ sung Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp khi có thay đổi, bổ sung liên quan đến Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp, vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 10, Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp; Công ty đã thực hiện hành vi ký Hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp không bao gồm đầy đủ thông tin theo quy định của pháp luật, vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 24 Nghị định 42/2014/NĐ-CP; Công ty đã thực hiện hành vi ký Hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp với cá nhân không đủ điều kiện tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật, vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 19- Nghị định 42/2014/NĐ-CP; Công ty đã thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ đào tạo cơ bản đối với người tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 20- Nghị định 42/2014/NĐ-CP; Công ty đã thực hiện hành vi duy trì nhiều hơn một vị trí kinh doanh đa cấp, hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp, mã số kinh doanh đa cấp hoặc các hình thức khác tương đương đối với một người tham gia bán hàng đa cấp, vi phạm quy định tại điểm p khoản 1 Điều 5 Nghị định 42/2014/NĐ-CP. Công ty đã vi phạm các quy định của Nghị định 42 về bán hàng đa cấp và quá trình hoạt động bán hàng đa cấp, Công ty đã có nhiều sai phạm nên Cục quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương đã ra Quyết định xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh đối với Công ty. Ngoài hình thức phạt tiền, Cục quản lý cạnh tranh còn áp dụng hình phạt bổ sung và biện pháp khắc phục là “Áp dụng hình thức xử phạt bổ sung Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 36 Nghị định 71/2014/NĐ-CP”, Công ty cổ phần LMTDVN không còn tư cách về mặt chủ thể để tham gia bán hàng đa cấp.

Ngày 08/9/2021, Tòa án mở phiên tòa lần thứ nhất nhưng do đại diện theo pháp luật của bị đơn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa.

Tại phiên tòa hôm nay: Đại diện theo pháp luật của bị đơn tiếp tục vắng mặt không lý do. Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Văn C xin xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình thụ lý, giải quyết và xét xử vụ án. Nguyên đơn, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật Tố tụng dân sự. Đại diện theo pháp luật của bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của của bà Phạm Thị D, buộc Công ty cổ phần LMTDVN phải trả cho bà D số tiền 16.250.000 đồng.

Về án phí: Công ty cổ phần LMTDVN phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

- Kiến nghị, khắc phục vi phạm: Không

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về người tham gia tố tụng: Căn cứ Đơn khởi kiện của bà Phạm Thị D, Tòa án đưa bà Lê Thị Loan vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Quá trình giải quyết vụ án, đại diện Công an phường Hai Bà Trưng, thành phố Phủ Lý, tỉnh HN cung cấp không có ai tên Lê Thị Loan, sinh năm 1959 cư trú tại tổ 9, phường Hai Bà Trưng, thành phố Phủ Lý, tỉnh HN. Nguyên đơn bà D không cung cấp được địa chỉ nào khác và trình bày bà D không liên quan đến vụ án do đó không xác định bà Loan là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

[2]. Về sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Đại diện theo pháp luật của bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do; đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xin vắng mặt. Do vậy, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng là phù hợp với quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngày 13/3/2015, Công ty cổ phần LMTDVN và bà Phạm Thị D đã ký Hợp đồng hợp tác bán hàng số 0077097/HĐ-LMTD, thời gian là 01 năm và có hiệu lực pháp lý kể từ thời điểm hai bên ký kết. Căn cứ hợp đồng trên, bà D có nộp tiền mua hàng của Công ty cổ phần LMTDVN nhưng đến nay chưa được giao đủ số hàng đã mua. Bà D đã đòi nhiều lần nhưng Công ty chưa trả. Các bên không tự giải quyết được tranh chấp nên bà D khởi kiện ra Tòa án. Quan hệ tranh chấp giữa bà D với Công ty cổ phần LMTDVN là quan hệ dân sự giữa cá nhân không có giấy phép đăng ký kinh doanh với pháp nhân có giấy phép đăng ký kinh doanh về bán hàng đa cấp. Đây là “Tranh chấp về hợp đồng dân sự (cụ thể là tranh chấp hợp đồng hợp tác bán hàng”. Bị đơn Công ty cổ phần LMTDVN có địa chỉ trụ sở tại Lô 24, khu dân cư sỹ quan, Quân đoàn 2, đường Hoàng Văn Thụ kéo dài, phường Dĩnh Kế, thành phố B, tỉnh B nên Tòa án nhân dân thành phố B thụ lý giải quyết yêu cầu của bà D là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4]. Xét yêu cầu khởi kiện của bà D về việc buộc Công ty cổ phần LMTDVN phải trả số tiền 16.250.000 đồng:

[4.1] Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ do bà Phạm Thị D cung cấp, có căn cứ xác định: Ngày 13/3/2015, bà D ký Hợp đồng hợp tác bán hàng số 0077097/HĐ- LMTD với Công ty cổ phần LMTDVN - trong thời gian Công ty được phép hoạt động bán hàng đa cấp. Bà D đã mua của công ty 02 gói hàng, giá mỗi gói sản phẩm là 8.450.000 đồng. Tổng cộng số tiền bà D đã nộp vào Công ty Cổ phần LMTDVN là 16.900.000 đồng. Hiện Công ty mới được trả bà D một lần tiền hoa hồng là 650.000 đồng, chưa trả bà D 02 gói hàng.

[4.2]. Ngày 03/10/2016, cục quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương có Quyết định về việc xử lý vụ việc cạnh tranh số 252/QĐ-QLCT đối với Công ty cổ phần LMTDVN. Tại Quyết định trên thì Công ty cổ phần LMTDVN đã bị áp dụng hình phạt bổ sung và biện pháp khắc phục là thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 36 Nghị định 71/2014/NĐ- CP.

[4.3]. Bà D yêu cầu Công ty cổ phần LMTDVN phải trả 16.250.000 đồng tương đương giá trị của 02 gói hàng đã nộp tiền mua nhưng chưa được Công ty trả hàng (bà D tự nguyện trừ đi số tiền 650.000 đồng là tiền bà D được nhận tiền hoa hồng) là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp và điểm c khoản 2 Điều 9 Thông tư số 24/2014/TT-BCT ngày 30/07/2014 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp. Do vậy Hội đồng xét xử nhận thấy cần chấp nhận yêu cầu trên của bà D.

[5] Về án phí: Yêu cầu của bà D được chấp nhận nên Công ty cổ phần LMTDVN phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 274, Điều 275, Điều 280 của Bộ luật Dân sự; khoản 2 Điều 16 của Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp;

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử:

1. Buộc Công ty cổ phần LMTDVN phải trả bà Phạm Thị D số tiền 16.250.000 đồng.

2. Về án phí: Công ty cổ phần LMTDVN phải chịu 406.200 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

5. Về hướng dẫn thi hành án dân sự: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7, 7a, 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 - Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng hợp tác bán hàng số 123/2021/DS-ST

Số hiệu:123/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về