TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 274/2021/DS-PT NGÀY 26/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GỬI GIỮ TÀI SẢN
Trong ngày 16/03/2021 và ngày 26/03/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 15/2021/TLPT- DS ngày 05 tháng 01 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản”.
Do Bản án sơ thẩm số 440/2020/DS-ST ngày 18/11/2020 của Tòa án nhân dân Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 715/2021/QĐPT - DS ngày 25/02/2021, Quyết định tạm ngưng phiên toà số 2900/2021/QĐPT - DS ngày 16/03/2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Phan Minh C, sinh năm 1978 (có mặt).
Địa chỉ: 346/37 LTT, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bị đơn: Công ty Cổ phần Thương mại và Dịch vụ Công nghiệp HG Địa chỉ: FF 12C BV, Phường K, Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: ông Ngô Quang H.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Võ Tường L, sinh năm 1983 (có mặt).
Địa chỉ thường trú: Khu phố Xóm Gò 1, thị trấn G, huyện H, tỉnh Tiền Giang; Địa chỉ liên lạc: FF 12C đường BV, Phường K, Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Phan Minh C trình bày:
Vào lúc 17h30 ngày 31/12/2019, ông có điều khiển chiếc xe mô tô SH 150 biển số: 59F1-513.98 do ông là chủ sở hữu, vào gửi tại bãi xe Bệnh viện 115 Thành phố Hồ Chí Minh để nuôi người nhà đang điều trị tại bệnh viện. Khi gửi xe ông được nhân viên giao phiếu giữ xe gắn máy, phiếu giữ xe do Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ công nghiệp HG phát hành (sau đây gọi tắt là Công ty HG) và là chủ thể thực hiện việc trông giữ xe của ông. Khoảng 19h30 phút cùng ngày ông ra lấy xe thì phát hiện chiếc xe của ông đã bị kẻ gian lấy cắp. Ngay sau đó, ông đã trình báo Công an phường V, quận Y và Công an phường V đã đến lập biên bản sự việc và chuyển hồ sơ qua Công an Quận Y để điều tra. Tuy nhiên, việc điều tra của Công an Quận Y không có kết quả, đến nay vẫn chưa tìm ra được người trộm cắp chiếc xe của ông.
Sau khi ông bị mất xe, Công ty HG đã nhiều lần mời ông đến làm việc về vụ chiếc xe bị mất nhưng không có kết quả. Công ty HG không đưa ra được phương án cụ thể để bồi thường chiếc xe cho ông. Chính vì vậy, ông đã khởi kiện Công ty HG đến Tòa án nhân dân Quận Y để yêu cầu Công ty phải bồi thường chiếc xe cho ông. Tại phiên tòa ngày hôm nay, ông C xác định Công ty HG là chủ thể trực tiếp thực hiện việc trông giữ xe cho ông nên Công ty HG phải bồi thường giá trị chiếc xe của ông tại thời điểm bị mất là 120.000.000 đồng. Ngoài ra, ông không có yêu cầu hay ý kiến gì khác.
- Tại các bản khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn Công ty HG đã thừa nhận sự việc ngày 31/12/2019, Công ty HG nhận giữ xe mô tô hiệu SH 150 biển số 59F1-513.98 do ông Phan Minh C gửi và đã để mất xe. Công ty HG chịu trách nhiệm đứng ra bồi thường chiếc xe bị mất cho ông C. Tuy nhiên theo Công ty HG, giá trị chiếc xe của ông C tại thời điểm bị mất vào khoảng 60.000.000 đồng nên Công ty HG chỉ đồng ý bồi thường cho ông C 60.000.000 đồng.
Đối với ông Nguyễn Văn D (là nhân viên Công ty HG) được Công ty giao nhiệm vụ trông giữ xe cho ông C. ông D đã không thực hiện tốt nhiệm vụ được giao để mất xe của ông C. Tuy nhiên, Công ty HG sẽ tự xử lý nội bộ đối với ông D. Trong vụ án này, Công ty HG không có yêu cầu gì đối với ông D và không yêu cầu đưa ông D vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Tại Bản án sơ thẩm số 440/2020/DS – ST ngày 18/11/2020, Tòa án nhân dân Quận Y tuyên xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
1/ Buộc Công ty cổ phần Thương mại và Dịch vụ Công nghiệp HG phải trả cho ông Phan Minh C 120.000.000 (một trăm hai mươi triệu) đồng tiền bồi thường giá trị còn lại của chiếc xe mô tô hiệu SH 150 biển số 59F1-513.98 bị mất, thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành chưa thi hành khoản tiền trên, thì hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
2/ Về án phí: Buộc Công ty cổ phần Thương mại và Dịch vụ Công nghiệp HG phải chịu 6.000.000 (sáu triệu) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Phan Minh C không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả cho ông C số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 3.750.000 (ba triệu, bảy trăm năm mươi nghìn) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: AA/2019/0014506 ngày 06/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận Y.
3/ Về chi phí khảo sát giá trị tài sản: Buộc Công ty cổ phần Thương mại và Dịch vụ Công nghiệp HG phải chịu 900.000 (chín trăm nghìn) đồng tiền chi phí khảo sát giá trị tài sản. Công ty cổ phần Thương mại và Dịch vụ Công nghiệp HG đã nộp đủ số tiền chi phí khảo sát giá trị tài sản nêu trên.
Ngoài ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm bị đơn Công ty Cổ phần Thương mại và Dịch vụ Công nghiệp HG có kháng cáo không đồng ý đối với bản án sơ thẩm nêu trên.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bên đã đồng ý thoả thuận và hoà giải thành về việc giải quyết toàn bộ vụ án như sau:
- Phía bị đơn Công ty Cổ phần Thương mại và Dịch vụ Công nghiệp HG đồng ý trả cho nguyên đơn ông Phan Minh C số tiền là 80.000.000 đồng (tám mươi triệu đồng) tiền bồi thường giá trị của chiếc xe mô tô hiệu SH 150 biển số 59F1-513.98 đã bị mất, thời gian giao tiền là vào ngày 29/03/2021 và về án phí do phía bị đơn chịu.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:
Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm này Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay, HĐXX đã thực hiện đúng các quy định của Điều 298, Điều 303, Điều 305 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 tại phiên tòa phúc thẩm.
Về nội dung: Tại phiên toà phúc thẩm các đương sự đã cùng thống nhất và thoả thuận về việc giải quyết vụ kiện là phía bị đơn Công ty Cổ phần Thương mại và Dịch vụ Công nghiệp HG đồng ý trả cho nguyên đơn ông Phan Minh C số tiền là 80.000.000 đồng (tám mươi triệu đồng) tiền bồi thường giá trị của chiếc xe mô tô hiệu SH 150 biển số 59F1-513.98 đã bị mất, thời gian giao tiền là vào ngày 29/03/2021. Do đó, đề nghị HĐXX công nhận sự thoả thuận của các đương sự tại phiên toà và sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 440/2020/DS - ST ngày 18/11/2020 của Tòa án nhân dân Quận Y.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm, sau khi nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn Công ty cổ phần Thương mại và Dịch vụ Công nghiệp HG đảm bảo đúng quy định về thời hạn và thủ tục kháng cáo, do đó về hình thức là hợp lệ. Về người tham gia tố tụng trong vụ án và tống đạt các văn bản tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và xác định đúng về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn và đại diện theo uỷ quyền của bị đơn cùng thống nhất và thoả thuận như sau:
Bị đơn Công ty Cổ phần Thương mại và Dịch vụ Công nghiệp HG đồng ý trả cho ông Phan Minh C số tiền 80.000.000đồng (tám mươi triệu) là tiền bồi thường giá trị của chiếc xe mô tô hiệu SH 150 biển số 59F1-513.98 đã bị mất, thời gian giao tiền là vào ngày 29/03/2021, việc giao - nhận tiền do hai bên tự thực hiện. Về án phí do phía bị đơn chịu.
Xét thấy, các đương sự đã đưa ra được sự thoả thuận về việc giải quyết toàn bộ vụ án, sự thoả thuận này là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội nên HĐXX ghi nhận sự tự nguyện giữa các đương sự về việc thoả thuận như trên. Do đó đề nghị của đại diện VKS về việc sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thoả thuận các đương sự tại phiên toà phúc thẩm là có căn cứ nên chấp nhận.
[3]. Về án phí: Do các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án, HĐXX phúc thẩm sửa bản án, do đó đương sự chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 300; khoản 2 Điều 308; Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 440/2020/DS - ST ngày 18/11/2020, Tòa án nhân dân Quận Y Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Công nhận sự thoả thuận của các đương sự tại phiên toà phúc thẩm như sau: Bị đơn Công ty Cổ phần Thương mại và Dịch vụ Công nghiệp HG đồng ý trả cho ông Phan Minh C số tiền 80.000.000đồng (tám mươi triệu) là tiền bồi thường giá trị của chiếc xe mô tô hiệu SH 150 biển số 59F1-513.98 đã bị mất, thời gian giao tiền vào ngày 29/03/2021, việc giao - nhận tiền do hai bên tự thực hiện.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Phan Minh C không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả cho ông C số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 3.750.000 (ba triệu, bảy trăm năm mươi nghìn) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: AA/2019/0014506 ngày 06/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận Y. Công ty Cổ phần Thương mại và Dịch vụ Công nghiệp HG chịu án phí số tiền là 4.000.000đ (bốn triệu đồng).
4. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Công ty Cổ phần Thương mại và Dịch vụ Công nghiệp HG chịu án phí số tiền là 300.000đ đã nộp theo biên lai tạm ứng phí số 0049802 ngày 02/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh (đã nộp xong).
Thi hành sau khi bản án có hiệu lực pháp luật tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
5. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản số 274/2021/DS-PT
Số hiệu: | 274/2021/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về