Bản án về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản số 09/2021/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BN

BẢN ÁN 09/2021/DS-PT NGÀY 16/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GỬI GIỮ TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh BN xét xử phúc thẩm vụ án thụ lý số: 17/2021/TLPT- DS ngày 21/10/2021 về “Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản”. Do bản án dân sự sơ thẩm số: 13/2021/DS-ST ngày 28/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện QV, tỉnh BN bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 10/2021/QĐ-PT ngày 09/11/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1969 (vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Nguyễn Kim T, sinh năm 1965 (vắng mặt).

Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1965 (vắng mặt). Cùng địa chỉ: Thôn L, xã Việt H, huyện QV, tỉnh BN. Do có kháng cáo của bị đơn Ông Nguyễn Kim T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu trong hồ sơ thì vụ án có nội dung như sau: Nguyên đơn là Bà Nguyễn Thị T trình bày: Bà và ông T là người cùng thôn. Ông T có làm dịch vụ kho lạnh gửi giữ bảo quản khoai tây giống. Cuối năm 2018 bà có mang 201kg khoai tây giống đến gửi tại kho lạnh nhà ông T với giá gửi 1kg khoai là 2.400đ. Đến khoảng tháng 9 năm 2019, bà đến lấy toàn bộ số khoai giống đã gửi nhà ông T về để trồng và bà đã thanh toán đầy đủ tiền gửi khoai cho ông T với số tiền là 482.000đ. Sau khi nhận lại khoai khoảng một tuần bà đổ khoai ra thì mới phát hiện toàn bộ số khoai giống bà gửi ở kho nhà ông T bị hỏng với đặc điểm củ khoai bị rắn, cứng, đen bên trong không thể trồng được. Vài hôm sau bà có gặp bà D vợ ông T ở ngoài đường và có nói với bà D về việc khoai hỏng xong bà D nói khoai hỏng không phải do gửi kho lạnh nhà bà D. Bà không mang khoai hỏng đến cho vợ chồng ông T, bà D xem mà bà đã bỏ đi toàn bộ số khoai giống đã gửi kho nhà ông T và bà đi mua khoai giống mới về để trồng.

Khi gửi khoai tại kho nhà ông T hai bên có kiểm tra sơ qua khoai giống thấy khoai vàng và không bị thối thì ông T, bà D cho vào kho lạnh. Sau khi nhận lại khoai giữa hai bên không kiểm tra lại khoai mà bà mang khoai về ngay đến khoảng một tuần sau bà mới kiểm tra lại.

Nay bà yêu cầu ông T, bà D phải bồi thường cho bà giá trị số khoai giống bà phải mua ở ngoài là 201kg x 16.000đ/kg = 3.216.000.000đ. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà rút một phần yêu cầu khởi kiện, bà chỉ yêu cầu ông T bồi thường cho bà số tiền 1.608.000đ tương đương 100,5kg khoai tây bị hỏng.

Bị đơn là Ông Nguyễn Kim T trình bày: Ông xác nhận ông có làm dịch vụ kho lạnh để bảo quản khoai tây giống cho bà con trong vùng. Ông xác nhận sau khi thu hoạch khoai tây vụ xuân năm 2019 xong ông có nhận gửi của bà Toan số khoai tây giống là 201kg theo như sổ sách ghi chép của gia đình ông. Ông đã thu của bà Toan số tiền tương ứng với số khoai tây bà Toan gửi với giá gửi giữ là 2.400đ/1kg khoai tây.

Ông cũng xác nhận khoai giống vụ xuân năm 2019 của các hộ dân gửi tại kho nhà ông có bị hỏng nhưng số khoai hỏng không như các hộ dân trình bày mà chỉ hỏng một phần nào đó. Trong kho nhà ông có bảo quản cả khoai giống vụ Đông nhưng số khoai giống vụ Đông do chất lượng tốt nên không bị hỏng chỉ có khoai giống vụ Xuân do điều kiện thời tiết nên chất lượng khoai giống kém mới bị hỏng. Ngoài ra cùng là khoai giống vụ Xuân nhưng số của khoai to lại hỏng nhiều hơn củ khoai nhỏ. Vì củ khoai to có thời gian ở đồng nhiều hơn nên nhiễm nấm bệnh nhiều hơn. Nguyên nhân khoai giống hỏng là do các hộ đem gửi không đảm bảo chất lượng chứ không phải do kỹ thuật bảo quản kho lạnh nhà ông. Ông đã đem số mẫu khoai bị hỏng đi làm xét nghiệm tại Viện bảo vệ thực vật thì kết quả các mẫu vật bị hỏng là do nhiễm nấm gây hỏng củ chứ không phải do chất lượng bảo quản của kho lạnh. Ông thừa nhận trong quá trình bảo quản khoai máy lạnh trong kho có bị hỏng một thời gian nhưng đây không phải là nguyên nhân gây hỏng khoai giống như nguyên đơn đã trình bày. Bà Toan khởi kiện yêu cầu ông bồi thường thiệt hại số tiền 1.608.000đ ông không đồng ý, ông đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của bà Toan.

Bị đơn là Bà Nguyễn Thị D trình bày: Bà nhất trí với lời trình bày của ông T.

Bà đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của bà Toan.

Với nội dung trên bản án sơ thẩm đã căn cứ khoản 3 Điều 26; Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 554; 555; 556 và 561 Bộ luật dân sự; Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về thu nộp quản lý, sử dụng án phí lệ phí Tòa án xử:

Chấp nhận việc rút một phần hai yêu cầu khởi kiện về việc buộc Ông Nguyễn Kim T và Bà Nguyễn Thị D phải bồi thường cho Bà Nguyễn Thị T số tiền 3.216.000đ do làm hỏng tài sản mà ông T, bà D nhận gửi giữ.

Chấp nhận toàn bộ phần yêu cầu khởi kiện còn lại của Bà Nguyễn Thị T.

Buộc Ông Nguyễn Kim T và Bà Nguyễn Thị D phải bồi thường cho Bà Nguyễn Thị T số tiền 1.608.000đ do làm hỏng tài sản mà ông T, bà D nhận gửi giữ.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên xử về nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xử sơ thẩm, ngày 14/9/2021, Ông Nguyễn Kim T có đơn kháng toàn bộ bản án.

Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Bị đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đồng thời trong đơn kháng cáo đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của nguyên đơn. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BN tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý phúc thẩm cho đến phần tranh luận tại phiên tòa là đảm bảo theo đúng trình tự, quy định của pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của Ông Nguyễn Kim T nộp trong hạn luật định, đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng nên được xem xét giải quyết theo trình tự xét xử phúc thẩm.

[2]. Về nội dung: Cuối năm 2018, Bà Nguyễn Thị T có mang khoai tây giống đến nhà Ông Nguyễn Kim T, Bà Nguyễn Thị D để gửi tại kho lạnh. Khi gửi khoai tây cả bên gửi là bà Toan và bên nhận gửi là ông T, bà D đều không làm hợp đồng gửi giữ mà chỉ thỏa thuận miệng với nhau, việc này các bên đều thừa nhận. Sau đó, do khoai tây mang đi gửi tại kho lạnh nhà ông T, bà D bị hỏng nên bà Toan khởi kiện ông T, bà D yêu cầu ông T, bà D bồi thường số tiền 3.216.000đ tương đương với 201kg khoai tây bị hỏng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản là đúng quy định.

Xét kháng cáo của bị đơn là Ông Nguyễn Kim T đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án của Tòa án cấp sơ thẩm thì thấy: Giữa ông T và bà Toan tuy không có hợp đồng gửi giữ tài sản bằng văn bản nhưng giữa hai bên đều thừa nhận có việc gửi giữ khoai tây nên có thể khẳng định giữa ông T và bà Toan có hợp đồng gửi giữ tài sản là khoai tây giống. Do khi gửi khoai tây tại nhà ông T cả bà Toan và ông T chỉ thỏa thuận miệng với nhau về giá gửi mà không có thỏa thuận gì về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Chỉ đến tháng 9/2019, khi bà Toan đến nhận lại khoai về trồng thì mới phát hiện toàn bộ số khoai tây bà Toan gửi ông T bị hỏng. Khi gửi và khi lấy về cả phía ông T và bà Toan đều không kiểm tra chất lượng khoai tây. Do đó, khi có thiệt hại xảy ra thì cả hai bên đều có lỗi, đồng thời, đều phải có trách nhiệm.

Phía nguyên đơn xác định toàn bộ số khoai tây giống đều được phía nguyên đơn L chọn như mọi năm tức là sau khi thu hoạch chọn những củ giống tốt, đóng bao và mang gửi tại kho nhà ông T. Còn điều kiện và cách thức bảo quản như thế nào do ông T tự chịu trách nhiệm. Phía bị đơn là ông T cho rằng lý do khoai tây gửi tại nhà ông hỏng là do số khoai tây này mang mầm bệnh từ trước, do đó ông không phải chịu trách nhiệm về số khoai tây bà Toan gửi nhà ông bị hỏng. Bởi theo kết luận giám định của Viện bảo vệ thực vật Hà Nội thì số khoai tây bị hỏng là do giống chứ không phải do bảo quản. Tuy nhiên, mẫu khoai tây mang đi giám định không phải là của bà Toan. Nên không đủ căn cứ để khẳng định khoai tây nhà bà Toan hỏng từ lúc để giống. Do đó, ông T phải chịu một phần trách nhiệm đối với số khoai tây hỏng của bà Toan. Hơn nữa, phía ông T cũng thừa nhận việc máy lạnh trong kho bảo quản của gia đình ông bị hỏng một vài tiếng nhưng ông T cho rằng máy chỉ bị hỏng vài tiếng nên không ảnh hưởng đến chất lượng khoai tây. Tuy nhiên, lời trình bày của ông T chưa có cơ sở chính xác và không đủ tài liệu, chứng cứ để chứng minh. Do đó, có thể khẳng định việc khoai tây hỏng cũng một phần là do hệ thống làm lạnh của kho nhà ông T bị hỏng. Từ những phân tích trên có thể thấy việc để khoai tây bị hỏng có cả lỗi của phía nguyên đơn và cả lỗi của phía bị đơn. Lỗi của phía nguyên đơn là không kiểm tra cách thức bảo quản khoai tây, khi nhận lại khoai tây giống không kiểm tra ngay. Còn bị đơn có lỗi là khi máy lạnh của kho bảo quản hỏng không thông báo cho nguyên đơn, khi nhận khoai tây giống để bảo quản không kiểm tra chất lượng của khoai tây. Nên để xác định lỗi hoàn toàn thuộc về nguyên đơn hay bị đơn là không có cơ sở nên cần xác định lỗi của nguyên đơn và bị đơn là như nhau nên mỗi bên phải chịu trách nhiệm với ½ số khoai tây hỏng. Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn rút ½ yêu cầu khởi kiện chỉ yêu cầu ông T phải bồi thường cho nguyên đơn một nửa số khoai tây hỏng. Do đó, bản án sơ thẩm xử buộc bị đơn có trách nhiệm bồi thường cho nguyên đơn số tiền 1.608.000đ tương đương với ½ số khoai tây giống hỏng là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

Tại giai đoạn chuẩn bị xét xử, cũng như tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, ông T kháng cáo toàn bộ bản án nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào mới nên kháng cáo của ông T không có căn cứ chấp nhận nên cần bác toàn bộ kháng cáo của ông T.

[3]. Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, ông T là con trai của liệt sĩ Nguyễn Kim Tập nên theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì thuộc trường hợp miễn án phí nên Hội đồng xét xử miễn toàn bộ án phí dân sự cho ông T là phù hợp với quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 554; 555; 556; 557 và 558 Bộ luật Dân sự; Điều 147; 244; 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Giữ nguyên bản án sơ thẩm xử:

1. Chấp nhận việc rút ½ yêu cầu khởi kiện về việc buộc Ông Nguyễn Kim T và Bà Nguyễn Thị D phải bồi thường cho Bà Nguyễn Thị T số tiền 3.216.000đ do làm hỏng tài sản mà ông T, bà D nhận gửi giữ.

2. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện còn lại của Bà Nguyễn Thị T. Buộc Ông Nguyễn Kim T và Bà Nguyễn Thị D phải bồi thường cho Bà Nguyễn Thị T số tiền 1.608.000đ do làm hỏng tài sản mà ông T, bà D nhận gửi giữ.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3. Án phí: Bà Nguyễn Thị T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại bà Toan 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0002653 ngày 14/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện QV.

Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm và dân sự phúc thẩm cho Ông Nguyễn Kim T và Bà Nguyễn Thị D.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

523
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản số 09/2021/DS-PT

Số hiệu:09/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về