Bản án về tranh chấp hợp đồng góp vốn số 86/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 86/2023/DS-ST NGÀY 10/07/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP VỐN

Ngày 10 tháng 7 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 231/2022/TLST-DS ngày 14 tháng 6 năm 2023 về việc: “Tranh chấp hợp đồng góp vốn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2023/QĐST–DS ngày 19 tháng 6 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 62/2023/QĐST-DS ngày 30 tháng 6 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Trần Hồng Đ, sinh năm 1975; địa chỉ: Ấp T A, xã LH, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện hợp pháp: Ông Trần Văn N, sinh năm 1981; địa chỉ: Số X đường N, Phường 11, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh là người đại diện theo ủy quyền (hợp đồng ủy quyền ngày 25/4/2022) có mặt

2. Bị đơn: Công ty TNHH Sản xuất – thương mại – dịch vụ bao bì HL; địa chỉ: Số X, đường số C, khu dân cư HT, phường H, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Người đại diện theo pháp luật: Ông Trương Đình L – chức vụ: Giám đốc vắng mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trương Đình L, sinh năm 1983; địa chỉ: Số X, đường L, Tổ 95, khu phố 8, phường P, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Trần Hồng Đ và người đại diện theo ủy quyền ông Trần Văn N trình bày:

Ông Trần Hồng Đ là nhân viên của Công ty TNHH Bao Bì HL (công ty HL) nên khi ông Trương Đình L là giám đốc Công ty có đề nghị góp vốn vào công ty để kinh doanh và được chia lợi nhuận kinh doanh hàng tháng thì ông Đ đồng ý. Ông Đ đã tiến hành góp vốn vào công ty hai đợt với tổng số tiền là 340.000.000đồng. Cụ thể, ngày 08/10/2018 ông Trần Hồng Đ và Công ty HL ký kết biên bản góp vốn vào công ty. Hai bên thỏa thuận ông Đ sẽ góp vốn với số tiền 200.000.000 đồng và hàng tháng công ty sẽ chi tiền lãi 5.000.000đồng. Ngày 09/10/2018, ông Trần Hồng Đ đã chuyển khoản vào tài khoản cá nhân ông Trương Đình L số 0281000277377 thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam – chi nhánh Bình Dương số tiền 170.000.000đồng và cùng ngày ông Đ đã đưa tiền mặt cho ông L số tiền 30.000.000đồng. Ngày 10/8/2019, ông Trần Hồng Đ và ông Trương Đình L đại diện công ty HL tiếp tục ký kết biên bản góp vốn với nội dung ông Động góp vốn với số tiền 140.000.000 đồng vào công ty HL. Hàng tháng công ty sẽ chi trả tiền lãi cho ông Đ với số tiền 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm ngàn đồng) và chi trả vào ngày 10 hàng tháng. Tổng cộng ông Đ đã đưa cho ông Trương Đình L đại diện công ty HL số tiền 340.000.000 đồng (Ba trăm bốn mươi triệu đồng). Thời gian đầu ông L trả lãi cho ông Đ đúng như đã thỏa thuận nhưng thời gian từ ngày 10/4/2020 đến nay phía ông Trương Đình L và công ty TNHH SX TMDV Bao bì HL đã không thực hiện đúng như thỏa thuận. Ông Đ đã nhiều lần liên hệ ông L và công ty HL để yêu cầu được nhận lại số tiền gốc đã góp vốn nhưng không có kết quả. Ngày 25/4/2022 ông Đ đã khởi kiện yêu cầu tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương giải quyết buộc ông Trương Đình L và công ty TNHH SX TMDV Bao Bì HL có trách nhiệm liên đới trả cho ông Đ số tiền 340.000.000 đồng (Ba trăm bốn mươi triệu đồng) và lãi suất chậm trả tạm tính đến ngày xét xử (từ 4/2020 đến ngày xét xử). Việc công ty TNHH SX TMDV Bao bì HL và ông Trương Đình L cố tình trì hoãn nhằm trốn tránh nghĩa vụ thanh toán tiền cho ông Đ, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Đ.

Ngày 04/7/2023, ông Trần Hồng Đ có thay đổi yêu cầu khởi kiện. Ông Trần Hồng Đ yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương xem xét giải quyết buộc công ty TNHH SX TMDV Bao bì HL và ông Trương Đình L là người đại diện theo pháp luật có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Trần Hồng Đ số tiền gốc đã nhận là 310.000.000 đồng. Tiền lãi tính từ ngày tiền lãi tính từ ngày 10/4/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm là 10/7/2023 với mức lãi suất 10%/năm x 48 tháng = 123.504.000đồng. Tổng số tiền gốc, lãi là 433.504.000 đồng.

Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên lời trình bày và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Bị đơn Công ty TNHH Bao Bì HL do ông Trương Đình L đại diện theo pháp luật:

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn Công ty TNHH Bao Bì HL nhưng tại địa chỉ đăng ký kinh doanh số 12, đường số 15, khu dân cư Hiệp Thành 3, phường Hiệp Thành, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thì công ty đóng cửa không còn hoạt động, không có ai nhận văn bản tố tụng của Tòa án.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trương Đình L: Ông Trương Đình L là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Bao Bì HL và đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ Số 1183/14, đường Lê Hồng Phong, Tổ 95, khu phố 8, phường Phú Thọ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Theo kết quả xác minh tại Công an phường Phú Thọ, thành phố Thủ Dầu Một xác định ông Trương Đình L còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương nhưng hiện nay đã bán nhà đi đâu không thông báo địa phương biết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tham gia phiên tòa phát biểu: Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đầy đủ, đúng các quy định pháp luật tố tụng dân sự và nguyên đơn đã chấp hành đúng theo quy định pháp luật, bị đơn và người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan không chấp hành theo quy định pháp luật. Kiểm sát viên không có ý kiến cũng như kiến nghị sửa chữa, bổ sung gì thêm về phần thủ tục. Về nội dung, căn cứ theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tranh chấp hợp đồng góp vốn số tiền gốc, lãi là 410.750.000 đồng của nguyên đơn đối với bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, tranh L tại phiên tòa và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định: [1] Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền: Bị đơn Công ty TNHH Bao Bì HL có trụ sở tại số 12, đường số 15, khu dân cư Hiệp Thành 3, phường Hiệp Thành, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về quan hệ pháp luật: Ông Trần Hồng Đ và ông Trương Đình L đại diện theo pháp luật của công ty TNHH Bao Bì HL xác lập giao dịch góp vốn là tiền. Theo đơn khởi kiện nguyên đơn ông Trần Hồng Đ xác định tranh chấp hợp đồng góp vốn với công ty TNHH Bao Bì HL. Do đó, có căn cứ xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp hợp đồng dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hợp đồng mà các bên giao kết là hợp đồng vay tài sản theo quy định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự.

[1.3] Về sự có mặt của đương sự: Nhận thấy, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng tại địa chỉ trụ sở công ty bao bì HL số 12, đường số 15, khu dân cư Hiệp Thành 3, phường Hiệp Thành, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thì tại trụ sở công ty đã đóng cửa, ngưng hoạt động, không có nhân viên nhận văn bản. Theo công văn cung cấp thông tin của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bỉnh Dương xác định hiện nay chưa nhận được yêu cầu giải thể hay phá sản của công ty TNHH Bao Bì HL.

Kết quả xác minh địa chỉ ông L tại nơi đăng ký hộ khẩu thường trú thì Công an phường Phú Thọ xác định hiện nay ông L vẫn còn hộ khẩu thường trú tại địa 1183/14 đường Lê Hồng Phong, tổ 95, khu phố 8, phường Phú Thọ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương nhưng đã bán nhà đi khỏi địa phương không thông báo nơi ở mới. Tòa án đã tiến hành thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong 3 số báo, đài liên tiếp để Công ty TNHH Bao Bì HL và ông Trương Đình L tham gia tố tụng tại Tòa án nhưng công ty HL và ông L không đến Tòa án tham gia tố tụng theo giấy triệu tập và cũng không gửi ý kiến bằng văn bản để chấp nhận hay phản đối yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hồng Đ. Do đó, căn cứ Khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt Công ty TNHH Bao Bì HL và ông Trương Đình L.

[2] Về nội dung: Theo các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ thể hiện, ngày 08/10/2018 ông Trần Hồng Đ và Công ty HL ký kết biên bản góp vốn vào công ty. Hai bên thỏa thuận ông Đ sẽ góp vốn với số tiền 200.000.000 đồng và hàng tháng công ty sẽ chi tiền lãi 5.000.000đồng. Ngày 09/10/2018, ông Trần Hồng Đ đã chuyển khoản vào tài khoản cá nhân ông Trương Đình L số 0281000277377 thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam – chi nhánh Bình Dương số tiền 170.000.000đồng và cùng ngày ông Đ đã đưa tiền mặt cho ông L số tiền 30.000.000đồng. Đối với số tiền góp vốn theo biên bản góp vốn ngày 08/10/2018 thì ông Đ chỉ yêu cầu Công ty Bao Bì HL và ông L hoàn trả số tiền 170.000.000đồng đã chuyển vào tài khoản của ông L. Đối với số tiền mặt 30.000.000đồng ông Đ đã đưa trực tiếp cho ông L thì ông Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về phần tiền lãi theo thỏa thuận thì ông Đ xác định ông L chỉ thanh toán cho ông Đ mỗi tháng 5.000.000đồng từ tháng 11 năm 2018 đến tháng 4 năm 2020 thì không thanh toán nữa.

Ngày 10/8/2019 ông Trần Hồng Đ và ông Trương Đình L đại diện công ty HL tiếp tục ký kết biên bản góp vốn với nội dung ông Động góp vốn với số tiền 140.000.000 đồng vào công ty TNHH SX TMDV Bao bì HL. Hàng tháng công ty sẽ chi trả tiền lãi cho ông Đ với số tiền 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm ngàn đồng) và chi trả vào ngày 10 hàng tháng. Số tiền góp vốn này ông Đ xác định đã đưa trực tiếp cho ông L giám đốc Công ty HL bằng tiền mặt. Tổng cộng ông Đ đã đưa cho ông Trương Đình L đại diện công ty HL số tiền 340.000.000 đồng (Ba trăm bốn mươi triệu đồng). Thời gian đầu ông L trả lãi cho ông Đ đúng như đã thỏa thuận nhưng thời gian từ ngày 10/4/2020 đến nay phía ông Trương Đình L và công ty TNHH SX TMDV Bao bì HL đã không thực hiện đúng như thỏa thuận. Ông Đ đã nhiều lần liên hệ ông L và công ty HL để yêu cầu được nhận lại số tiền gốc đã góp vốn nhưng không có kết quả. Ngày 25/4/2022 ông Đ đã khởi kiện yêu cầu tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương giải quyết buộc ông Trương Đình L và công ty TNHH SX TMDV Bao Bì HL có trách nhiệm liên đới trả cho ông Đ số tiền 310.000.000 đồng (Ba trăm mười triệu đồng) và lãi suất chậm trả tạm tính đến ngày xét xử (từ 4/2020 đến ngày xét xử). Xét thấy, ông Đ và công ty bao bì HL ký kết hợp đồng góp vốn dưới dạng góp tiền vào công ty và hàng tháng công ty chia tiền lãi từ hoạt động kinh doanh đã được ghi nhận rõ ràng tại biên bản ngày 08/10/2019 và ngày 10/8/2019. Việc công ty TNHH SX TMDV Bao bì HL và ông Trương Đình L cố tình trì hoãn nhằm trốn tránh nghĩa vụ thanh toán tiền cho ông Đ, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Đ nên ông Đ khởi kiện công ty TNHH SX TMDV Bao bì HL và ông Trương Đình L là có cơ sở chấp nhận.

Ngày 04/7/2023, ông Trần Hồng Đ có thay đổi yêu cầu khởi kiện. Ông Trần Hồng Đ yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương xem xét giải quyết buộc công ty TNHH SX TMDV Bao bì HL và ông Trương Đình L là người đại diện theo pháp luật có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Trần Hồng Đ số tiền gốc đã nhận là 310.000.000 đồng. Tiền lãi tính từ ngày tiền lãi tính từ ngày 10/4/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm là 10/7/2023 với mức lãi suất 10%/năm x 39 tháng = 100.750.000đồng. Tổng số tiền gốc, lãi là 410.750.000 đồng.

Bị đơn Công ty TNHH SX TMDV Bao Bì HL và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trương Đình L đã được thông báo, tống đạt các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt không lý do xem như từ bỏ quyền, nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong vụ án. Từ những phân tích trên, có cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện tranh chấp hợp đồng góp vốn của nguyên đơn ông Trần Hồng Đ đối với bị đơn Công ty TNHH SX TMDV Bao bì HL và ông Trương Đình L.

[3] Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn ông Trần Hồng Đ tự nguyện chịu 3.500.000đ, ông Đ đã nộp đủ.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên nguyên đơn ông Trần Hồng Đ không phải chịu án phí. Công ty TNHH SX TMDV Bao bì HL và ông Trương Đình L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật của số tiền 410.750.000 đồng tương đương án phí là 20.430.000đ.

Xét lời đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Điều 166, Điều 429, Điều 463, Điều 466 của Bộ luật Dân sự;

- Áp dụng Điều 6, Điều 8, Khoản 3 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 91, Điều 180, Khoản 1 Điều 147, Khoản 2 Điều 184, Khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trương Hồng Đ đối với bị đơn Công ty TNHH SX TMDV Bao bì HL về việc tranh chấp hợp đồng góp vốn.

Công ty TNHH SX TMDV Bao bì HL và ông Trương Đình L có nghĩa vụ thanh toán cho ông Trần Hồng Đ số tiền 410.750.000đ (Bốn trăm mười triệu đồng), trong đó tiền gốc là 310.000.000đ (Ba trăm mười triệu đồng) và tiền lãi là 100.750.000đ (Một trăm triệu, bảy trăm năm mươi nghìn đồng) Kể từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về chi phí tố tụng: Ông Trần Hồng Đ tự nguyện chịu 3.500.000đồng, ông Đ đã nộp đủ.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Công ty TNHH SX TMDV Bao bì HL và ông Trương Đình L phải chịu 20.430.000đ (Hai mươi triệu bốn trăm ba mươi nghìn đồng).

- Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một hoàn trả cho ông Trần Hồng Đ số tiền 9.194.000đ (Chín triệu một trăm chín mươi bốn nghìn đồng) tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0001367 ngày 02/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết công khai theo luật định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

352
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp vốn số 86/2023/DS-ST

Số hiệu:86/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về