Bản án về tranh chấp hợp đồng góp vốn số 287/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 287/2023/DS-ST NGÀY 30/06/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP VỐN

Trong ngày 30 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 626/2022/TLST-DS ngày 25 tháng 11 năm 2022 về “Tranh chấp hợp đồng góp vốn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 208/2023/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 5 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 246/2023/QĐST-DS ngày 08 tháng 6 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị X, sinh năm: 1961.

Địa chỉ: Số 451/1A đường B, Phường 2, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hoàng Ngọc Kh, sinh năm: 1984 (Xin vắng mặt).

Địa chỉ: Số 451/1A đường B, Phường 2, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh. (Theo Giấy ủy quyền ngày 27/10/2022, công chứng tại Phòng công chứng số 6, Thành phố Hồ Chí Minh, số công chứng 12646, quyển số: 10 TP/CC-SCC/HĐGD).

2. Bị đơn: Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Qu.

Địa chỉ: Số 1124 Tỉnh lộ 15, tổ 10, ấp Thạnh A, xã Trung A, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn Kim Nh, sinh năm: 1964 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Số 945 đường Tr, Phường 5, Thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện nộp ngày 02/11/2022, lời khai, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản không tiến hành hòa giải được, nguyên đơn là bà Trần Thị X- có người đại diện theo ủy quyền là ông Hoàng Ngọc Kh trình bày:

Vào năm 2007, bà X được Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Qu (sau đây gọi tắt là Hợp tác xã Hà Qu) giới thiệu về mô hình kinh tế tập thể trang trại nhà vườn, hộ gia đình và các xã viên tham gia làng nghề hoa, cây kiểng, cá cảnh mang lại hiệu quả kinh tế cao, Hợp tác xã Hà Qu ra sức thuyết phục bà X góp vốn bằng số tiền 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng) để được sở hữu quyền sử dụng đất có diện tích ngang 20m x dài 50m tại thửa số khu chọn lựa, khu G (bờ sông) tờ bản đồ số 07 xã Trung A, huyện C để phát triển kinh tế. Nghe lời thuyết phục, bà X và Hợp tác xã Hà Qu đã ký Hợp đồng thỏa thuận về việc góp vốn nhượng quyền sử dụng đất tham gia vào dự án làng nghề hoa, cây kiểng, cá cảnh do Hợp tác xã Hà Qu chủ đầu tư vào ngày 10/10/2007. Bà X đã thực hiện góp vốn với số tiền là 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng) theo Phiếu thu ngày 22/9/2007 của Hợp tác xã Hà Qu.

Kể từ thời điểm ký hợp đồng, bà X đã thực hiện góp vốn nhưng phía Hợp tác xã Hà Qu thường xuyên vi phạm các quy định của pháp luật như: Hợp đồng không được công chứng chứng thực hợp lệ, Hợp tác xã Hà Qu không thực hiện đúng nội dung đã cam kết tại Điều 1 của Hợp đồng là giao quyền sử dụng đất cho bà X, căn cứ vào Điểm b Khoản 1 Điều 423 của Bộ luật Dân sự năm 2015, bà X có quyền hủy bỏ hợp đồng mà không phải bồi thường. Do đó bà X đề nghị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi giải quyết các yêu cầu sau:

- Tuyên Hợp đồng thỏa thuận về việc góp vốn nhượng quyền sử dụng đất tham gia vào dự án làng nghề hoa, cây kiểng, cá cảnh ngày 10/10/2007 do Hợp tác xã Hà Qu chủ đầu tư vô hiệu;

- Buộc Hợp tác xã Hà Qu phải hoàn trả lại cho bà X số tiền 150.000.000đ đã góp vốn vào Hợp tác xã Hà Qu;

- Buộc Hợp tác xã Hà Qu giao quyền sử dụng đất có diện tích ngang 20m x dài 50m tại thửa số khu chọn lựa, khu G (bờ sông), tờ bản đồ số 07, xã Trung A, huyện C cho bà X.

Qua làm việc tại Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, bà X xin rút yêu cầu buộc Hợp tác xã Hà Qu giao trả quyền sử dụng đất có diện tích ngang 20m x dài 50m tại thửa số khu chọn lựa, khu G (bờ sông), tờ bản đồ số 07, xã Trung A, huyện C cho bà X.

* Bị đơn là Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Qu-có người đại diện theo pháp luật là ông Nguyễn Văn Kim Nh vắng mặt.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi:

- Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng nội dung quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015:

+ Vụ án được thụ lý đúng thẩm quyền;

+ Tòa án cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng đúng quy định;

+ Thời hạn gửi Thông báo thụ lý cho Viện kiểm sát cùng cấp đúng quy định;

+ Thời hạn gửi Quyết định đưa vụ án ra xét xử và thời hạn gửi hồ sơ đúng quy định;

+ Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng thời gian, địa điểm được ghi trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử, thành phần Hội đồng xét xử đúng quy định, việc tham gia hỏi tại phiên tòa đúng quy định;

+ Đối với các đương sự: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

- Về nội dung: Qua trình bày của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ do Tòa án nhân dân huyện Củ Chi thu thập cho thấy: Năm 2007 bà Trần Thị X được Hợp tác xã Hà Qu giới thiệu về mô hình kinh tế trang trại nhà vườn, hộ gia đình và các xã viên tham gia làng nghề hoa, cây kiểng, cá cảnh sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao, bà X đồng ý góp vốn bằng số tiền 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng) để phát triển kinh tế, tài sản bà X nhận được là quyền sử dụng đất có diện tích ngang 20m x dài 50m tại thửa số khu chọn lựa, khu G (bờ sông), tờ bản đồ số 07, xã Trung A, huyện C. Hai bên đã ký Hợp đồng thỏa thuận về việc góp vốn nhượng quyền sử dụng đất vào ngày 10/10/2007, bà X đã giao 150.000.000đ (một trăm năm mươi triệu đồng) cho Hợp tác xã Hà Qu theo Phiếu thu ngày 22/9/2007 do Hợp tác xã Hà Qu lập, tuy nhiên sau khi ký hợp đồng, Hợp tác xã Hà Qu thường xuyên vi phạm hợp đồng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà X, Hợp đồng thỏa thuận về việc góp vốn nhượng quyền sử dụng đất vào ngày 10/10/2007 được xác lập giữa các bên là giả cách nhằm che đậy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên hợp đồng này vô hiệu theo quy định tại Điều 122, Điều 127 và Điều 131 của Bộ luật Dân sự năm 2015, do đó bà X yêu cầu hủy hợp đồng này và yêu cầu Hợp tác xã Hà Qu trả lại số tiền 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng) là có cơ sở, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà X. Đối với yêu cầu buộc Hợp tác xã Hà Qu giao quyền sử dụng đất có diện tích ngang 20m x dài 50m tại thửa số khu chọn lựa, khu G (bờ sông), tờ bản đồ số 07, xã Trung A, huyện C cho bà X thì người đại diện theo ủy quyền của bà X đã rút yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết yêu cầu này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Theo đơn khởi kiện nộp ngày 02/11/2022, nguyên đơn là bà Trần Thị X yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Củ Chi giải quyết tuyên bố Hợp đồng thỏa thuận về việc góp vốn nhượng quyền sử dụng đất tham gia vào dự án làng nghề hoa, cây kiểng, cá cảnh ngày 10/10/2007 do Hợp tác xã Hà Qu làm chủ đầu tư vô hiệu và buộc Hợp tác xã Hà Qu phải hoàn trả lại cho bà X số tiền 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng) đã góp vốn vào Hợp tác xã Hà Qu, đây là vụ án tranh chấp về hợp đồng góp vốn được quy định tại Khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Bị đơn có trụ sở tại số 1124 Tỉnh lộ 15, ấp Thạnh A, xã Trung A, huyện C nên vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn là bà Trần Thị X-có người đại diện theo ủy quyền là ông Hoàng Ngọc Kh có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn là Hợp tác xã Hà Qu-có người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Văn Kim Nh đã được tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa nhưng tại phiên toà hôm nay vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành phiên tòa theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[3] Về pháp luật áp dụng:

Giao dịch dân sự giữa bà Trần Thị X và Hợp tác xã Hà Qu được xác lập vào năm 2007, được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự năm 2005, tuy nhiên cho đến nay giao dịch này chưa được thực hiện xong nhưng có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015 để giải quyết (Điểm b Khoản 1 Điều 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015).

[4] Về yêu cầu của đương sự:

Nguyên đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Củ Chi giải quyết tuyên Hợp đồng thỏa thuận về việc góp vốn nhượng quyền sử dụng đất tham gia vào dự án làng nghề hoa, cây kiểng, cá cảnh ngày 10/10/2007 do Hợp tác xã Hà Qu làm chủ đầu tư vô hiệu, buộc Hợp tác xã Hà Qu phải hoàn trả lại cho bà X số tiền 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng) đã góp vốn vào Hợp tác xã Hà Qu và buộc Hợp tác xã Hà Qu giao quyền sử dụng đất có diện tích ngang 20m x dài 50m tại thửa số khu chọn lựa, khu G (bờ sông), tờ bản đồ số 07, xã Trung A, huyện C cho nguyên đơn.

Trong quá trình Tòa án nhân dân huyện Củ Chi giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu Hợp tác xã Hà Qu giao quyền sử dụng đất có diện tích ngang 20m x dài 50m tại thửa số khu chọn lựa, khu G (bờ sông), tờ bản đồ số 07, xã Trung A, huyện C cho nguyên đơn, căn cứ vào Khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu khởi kiện này của bà X.

[4.1] Tòa án nhân dân huyện Củ Chi đã ban hành văn bản số 436/TAHCC ngày 06/3/2023 để xác minh thông tin về quá trình hoạt động của Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Qu, tại văn bản số 2964/UBND-TCKH ngày 22/3/2023 của Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi phúc đáp xác minh của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi thể hiện:

“Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Qu thực hiện đăng ký lần đầu vào ngày 04/8/2003, số đăng ký: 0014.CC, trụ sở chính tại ấp Bến C, xã Ph, huyện C. Vốn điều lệ là 1.000.000.000đ (Một tỷ đồng), do bà Nguyễn Thị Kim A là người đại diện theo pháp luật của Hợp tác xã, với 07 thành viên. Ngành nghề đăng ký kinh doanh: Chăn nuôi (bò sữa, gia cầm, heo thịt, heo giống); nuôi thủy sản (cá thịt và cá giống); mua bán hoa, cây cảnh; du lịch sinh thái.

Tính đến nay Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Qu đã 08 lần thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh và lần thay đổi cuối cùng là Giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã số 0304761292, thay đổi lần thứ 8 vào ngày 24/02/2023, địa chỉ trụ sở chính tại số 1124 Tỉnh lộ 15, ấp Thạnh A, xã Trung A, huyện C, gồm 07 thành viên, do ông Nguyễn Văn Kim Nh là người đại diện theo pháp luật đồng thời là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc của Hợp tác xã. Vốn điều lệ là 70.000.000.000đ (Bảy mươi tỷ đồng). Hiện tại Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi chưa tiếp nhận đề nghị giải thể của Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Qu”.

[4.2] Hội đồng xét xử xét thấy, căn cứ vào Hợp đồng thỏa thuận về việc góp vốn nhượng quyền sử dụng đất tham gia vào dự án làng nghề hoa, cây kiểng, cá cảnh ngày 10/10/2007 do Hợp tác xã Hà Qu làm chủ đầu tư và Phiếu thu số 31 ngày 29/12/2007 có đóng dấu của Hợp tác xã Hà Qu, Hợp tác xã Hà Qu có nhận của bà X số tiền là 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng) để góp vốn nhận chuyển nhượng khu đất có diện tích ngang 20m x 50m tờ bản đồ số 7, xã Trung A, huyện C, trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng, Hợp tác xã Hà Qu không thực hiện đúng như thỏa thuận quy định tại Điều 1 của Hợp đồng về tính pháp lý của dự án, căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Hợp tác xã số 4107R0002, đăng ký thay đổi lần thứ 2 ngày 07/7/2006 do Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi cung cấp thì tại thời điểm ký hợp đồng với bà X, Hợp tác xã Hà Qu không chứng minh được việc Hợp tác xã Hà Qu được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự án, đồng thời không có chức năng nhận vốn góp của xã viên để nhận chuyển nhượng thay quyền sử dụng đất sau đó giao đất lại cho xã viên, vì vậy việc bà X khởi kiện yêu cầu Hợp tác xã Hà Qu phải trả số tiền nêu trên và yêu cầu tuyên Hợp đồng là có cơ sở chấp nhận do giao dịch dân sự vi phạm về mục đích và nội dung, Hợp tác xã Hà Qu có hành vi lừa dối nhằm làm cho bà X hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng được ghi nhận trong hợp đồng để ký hợp đồng giả tạo, che đậy giao dịch chuyển nhượng, do đó Hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 122, Điều 124, Điều 127 và Điều 131 của Bộ luật Dân sự năm 2015, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, do vậy yêu cầu khởi kiện của bà X là có cơ sở để chấp nhận.

[5] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát:

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của bà X và đình chỉ yêu cầu khởi kiện bà X đã rút, xét đề nghị trên của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6] Về nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm:

Hợp tác xã Hà Qu phải chịu án phí dân sự có giá ngạch đối với số tiền phải trả lại cho bà X theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Khoản 3 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 58, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 122, Điều 124, Điều 127 và Điều 131 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 6, Điều 7, Điều 26, Điều 30, Điều 31 và Điều 32 của Luật Thi hành án Dân sự năm 2008;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Trần Thị X.

1.1. Tuyên bố “Hợp đồng thỏa thuận về việc góp vốn nhượng quyền sử dụng đất tham gia vào dự án làng nghề hoa, cây kiểng, cá cảnh ngày 10/10/2007 do HTX Hà Qu chủ đầu tư” được ký kết giữa bà Trần Thị X và Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Qu vô hiệu.

1.2. Buộc Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Qu trả lại cho cho bà Trần Thị X số tiền 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng).

Thi hành ngay sau khi Bản án phát sinh hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bà Trần Thị X có đơn yêu cầu thi hành án, nếu Hợp tác xã Nông nghiệp nuôi trồng thủy sản Hà Qu chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại Khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị X về việc yêu cầu Hợp tác xã Nông nghiệp nuôi trồng thủy sản Hà Qu giao quyền sử dụng đất có diện tích ngang 20m x dài 50m tại thửa số khu chọn lựa, khu G (bờ sông), tờ bản đồ số 07, xã Trung A, huyện C cho bà X.

3. Án phí dân sự sơ thẩm:

Hợp tác xã Nông nghiệp nuôi trồng thủy sản Hà Qu phải chịu án phí là 7.500.000đ (Bảy triệu năm trăm ngàn đồng).

Thi hành tại Chi cục Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc từ ngày Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp vốn số 287/2023/DS-ST

Số hiệu:287/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về