Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi và hợp đồng vay tài sản số 06/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 06/2022/DS-ST NGÀY 21/01/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI VÀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 158/2021/TLST-DS ngày 23 tháng 6 năm 2021 về tranh chấp hợp đồng góp hụi và hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 107/2021/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 12 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đoàn Thị Minh H, sinh năm 1975; địa chỉ: Tổ 3, ấp H, xã T, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh. Vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Vương Sơn H1, sinh năm 1984; địa chỉ: 3/64, ấp T, xã T1, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh (văn bản ủy quyền ngày 25/6/2021). Vắng mặt.

2. Bị đơn:

2.1. Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1982; vắng mặt.

2.2. Bà Đỗ Thị H3, sinh năm 1981; vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Tổ 7, ấp H, xã T, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 21 tháng 6 năm 2021 của nguyên đơn bà Đoàn Thị Minh H, cùng các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của bà H là ông Vương Sơn H1 trình bày:

Trước đây, bà H làm chủ hụi và vợ chồng ông Th, bà H3 có tham gia nhiều dây hụi của bà H cụ thể như sau:

- Dây hụi thứ nhất: Hụi 1.000.000 đồng/tháng, hụi mở ngày 05/5/2018 AL, hụi gồm có 25 phần; ông Th, bà H3 tham gia 03 phần và hốt hụi ở lần thứ nhất vào ngày 10/7/2018 (AL) với số tiền là 18.000.000 đồng; đến 05/10/2018 (AL) hốt hụi lần 2 số tiền là: 17.420.000 đồng và ông Th, bà H3 hốt hụi lần 3 được số tiền 18.620.000 đồng. Dây hụi này ông Th, bà H 3 còn nợ lại 06 kỳ hụi chết là 1.000.000 đồng x 03 phần x 06 kỳ = 18.000.000 đồng.

- Dây hụi thứ hai: Hụi 100.000 đồng, một tuần khui một lần, hụi mở ngày 05/9/2018 (AL), hụi gồm 120 phần. Ông Th, bà H3 tham gia 02 phần đã hốt hụi xong cụ thể: Lần 1: ngày 06/5/2019 bà H3, ông Th hốt được số tiền 8.450.000 đồng; lần 2: ngày 09/8/2019 được số tiền 9.186.000 đồng. Dây hụi này ông Th bà H3 còn nợ lại 56 tuần hụi chết là 100.000 đồng x 02 phần x 56 tuần = 11.200.000 đồng.

- Dây hụi thứ ba: Hụi 1.000.000 đồng/ tháng, hụi mở ngày 20/4/2019 (AL), hụi gồm có 25 phần; ông Th, bà H3 tham gia 02 phần và hốt ngày 20/8/2019 (AL) số tiền là 17.990.000 đồng; vào ngày 20/12/2019 ông Th, bà H3 hốt hụi ở phần thứ 2 được số tiền 19.400.000 đồng. Dây hụi này ông Th, bà H3 còn nợ lại 12 kỳ hụi chết là 1.000.000 đồng x 02 phần x 12 kỳ = 24.000.000 đồng.

Ngày 21/07/2019, bà H3 có vay của bà H số tiền 5.000.000 đồng. Tổng số tiền nợ hụi và tiền vay ông Th, bà H3 còn nợ bà H là 58.200.000 đồng; sau đó, ông Th trả cho bà H được số tiền 17.100.000 đồng số tiền còn nợ lại là 41.100.000 đồng cho đến nay ông Th, bà H3 chưa thanh toán. Đã nhiều lần bà H yêu cầu ông Th, bà H3 trả nợ nhưng ông Th, bà H3 chỉ hứa mà không thực hiện. Nay, bà H khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn Th bà Đỗ Thị H3 trả số tiền hụi và tiền vay là 41.100.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 14/10/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết tại Tòa án, bị đơn ông Nguyễn Văn Th trình bày:

Ông và bà H3 là vợ chồng, nhưng đã ly hôn vào tháng 01/2021. Trong quá trình sống chung với bà H3, ông có biết việc bà H3 có tham gia hụi của bà H, do có thấy bà H đến nhà ông, bà H3 thu tiền hụi. Sau khi ly hôn, bà H3 bỏ địa phương đi, không rõ đi đâu, làm gì. Sau đó, bà H có đến nhà ông đòi tiền nợ thì ông có trả cho bà H được khoảng 10.000.000 đồng. Nay, bà H yêu cầu ông và bà H3 trả số tiền nợ hụi, tiền vay 41.100.000 đồng, ông không đồng ý vì ông không có tham gia hụi của bà H.

Bị đơn bà Đỗ Thị H3 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do, không có văn bản trình bày ý kiến.

- Ý kiến của đại diện Việm kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh:

+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử, đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Những người tham gia tố tụng đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, chấp hành tốt Nội quy phiên tòa.

+ Về nội dung vụ án: Căn cứ các Điều 463, 466, 471 Bộ luật Dân sự; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Thị Minh H về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn Th và bà Đỗ Thị H3 trả nợ vay, nợ hụi là 41.100.000 đồng.

Án phí bị đơn chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Căn cứ vào biên bản xác minh ngày 14 tháng 10 năm 2021 tại xã T, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh thấy rằng: Bà Đỗ Thị H3 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp H, xã T, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh nhưng bà H3 đã bỏ đi khỏi địa phương từ tháng 02/2021 cho đến nay. Trong đơn khởi kiện, người khởi kiện (bà Đoàn Thị Minh H) đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú người bị kiện (bà Đỗ Thị H3) nên được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú”. Trong vụ án này, người bị kiện (bà Đỗ Thị H3) thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong hợp đồng góp hụi, vay tài sản mà không thông báo cho bà Đoàn Thị Minh H biết về nơi cư trú, làm việc mới theo quy định nên được coi là cố tình giấu địa chỉ, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung là có căn cứ, đúng pháp luật. Xác định nơi đăng ký Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú cuối cùng của bà Đỗ Thị H3 là tại ấp H, xã T, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.

Ông Vương Sơn H1 là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; ông Nguyễn Văn Th là bị đơn vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bà Đỗ Thị H3 là bị đơn, vắng mặt đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Vương Sơn H1, bà Đỗ Thị H3 và ông Nguyễn Văn Th.

[2] Về nội dung vụ án: Bà Đỗ Thị H3 có tham gia 03 dây hụi do bà Đoàn Thị Minh H làm chủ hụi, bà H3 đã hốt hụi và còn nợ lại tiền hụi chết, ngoài ra, ngày 21/07/2019, bà H3 có vay của bà H số tiền 5.000.000 đồng.

Tổng cộng tiền nợ hụi và tiền vay là 58.200.000 đồng. Sau đó, ông Th trả cho bà H được 17.100.000 đồng, còn nợ lại 41.100.000 đồng. Hiện tại, bà H3 đã bỏ địa phương đi, không rõ đi đâu, ông Th cho rằng không tham gia hụi của bà H nên không đồng ý cùng bà H3 trả số tiền 41.100.000 đồng. Nên các bên xãy ra tranh chấp.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Thị Minh H, Hội đồng xét xử xét thấy: Việc bà Đỗ Thị H3 có tham gia các dây hụi tháng, tuần của bà Đoàn Thị Minh H là có thật. Khi mở hụi, bà H có lập danh sách hụi viên cho các hụi viên biết. Khi đăng hụi, hốt hụi bà Hcó giao giấy biên lai giao hụi và bà H3 có ký tên. Đến ngày 16/11/2020, bà Hiếu, bà H3 có chốt lại tổng số tiền hụi và tiền vay còn nợ lại là 41.100.000 đồng và bà H3 có ký tên. Mặc dù, không thể xác định được bà H3 phản đối hay thừa nhận yêu cầu khởi kiện của bà H nhưng việc bà H3 thiếu nợ hụi, vay của bà H được ông Th xác nhận nên đủ căn cứ xác định giữa các bên có xác lập giao dịch góp hụi và vay tài sản.

Căn cứ vào Điều 24 Nghị định 19/2019/NĐ-CP, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở để xác định bà H3 có tham gia hụi của bà Hvà còn nợ lại tiền hụi và tiền vay là 41.100.000 đồng. Đến nay, bà H3 vẫn chưa trả được tiền hụi, vay cho bà H do bà H3 bỏ địa phương đi. Nên yêu cầu của bà H về việc yêu cầu bà H3 trả số tiền hụi, tiền vay 41.100.000 đồng là có căn cứ chấp nhận.

[4] Xét yêu cầu của bà H về việc yêu cầu ông Th (chồng bà H3) cùng có trách nhiệm trả số tiền hụi, vay là 41.100.000 đồng, Hội đồng xét xử xét thấy: Bà Đỗ Thị H3 và ông Nguyễn Văn Th là vợ chồng, sống cùng nhà với nhau tại ấp H, xã T, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh. Tuy nhiên, vào tháng 01/2021, ông Th, bà H3 đã ly hôn, các sổ hụi (07 biên nhận hụi) do bà H cung cấp cho Tòa án thể hiện bà H3 đã lĩnh hụi, trong đó có 01 biên nhận hụi ghi tên người nhận là ông Th. Ông Th phản đối chứng cứ này nhưng không yêu cầu giám định chữ ký của mình xem như không có chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối của mình. Mặc khác, ông Th cho biết ông có biết việc bà H3 tham gia các dây hụi của bà Hiếu, mọi chi tiêu trong nhà do bà H3 quản lý. Sau đó, ông Th có trả cho bà H số tiền nợ là 17.100.000 đồng, nên đủ cơ sở xác định ông Th biết và thừa nhận nợ của bà H3 đối với bà H. Giấy chốt nợ giữa bà H và bà H3 lập ngày 16/11/2021, thời điểm này ông Th, bà H3 chưa có quyết định ly hôn nên đây là nợ chung trong thời kỳ hôn nhân ông Th phải có trách nhiệm cùng với bà H3 trả nợ hụi, vay cho bà H. Do đó, yêu cầu của bà Hvề việc yêu cầu ông Th cùng có trách nhiệm với bà H3 trả số tiền nợ hụi, tiền vay là 41.100.000 đồng là có cơ sở chấp nhận.

[5] Về án phí: Do yêu cầu của bà H được chấp nhận nên bà H3, ông Th phải chịu án phí sơ thẩm tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 463, 466, 471 Bộ luật Dân sự; các Điều 144, 147, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Thị Minh H đối với ông Nguyễn Văn Th và bà Đỗ Thị H3 về việc tranh chấp hợp đồng góp hụi và hợp đồng vay tài sản.

Buộc ông Nguyễn Văn Th, bà Đỗ Thị H3 cùng có nghĩa vụ trả cho bà Đoàn Thị Minh H số tiền hụi, vay là 41.100.000 (bốn mươi mốt triệu một trăm nghìn) đồng. Ghi nhận bà Hkhông yêu cầu tính tiền lãi.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bà Đoàn Thị Minh H cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bà Đỗ Thị H3, ông Nguyễn Văn Th còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2/ Về án phí:

Bà Đỗ Thị H3, ông Nguyễn Văn Th phải chịu 2.055.000 (hai triệu không trăm năm mươi lăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Đoàn Thị Minh H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn trả lại cho bà Hsố tiền 1.027.000 (một triệu không trăm hai mươi bảy nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm bà Hđã nộp tại biên lai thu số 0002145 ngày 23/6/2021, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.

3/ Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4/ Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi và hợp đồng vay tài sản số 06/2022/DS-ST

Số hiệu:06/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về