Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 69/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỂU CẦN, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 69/2022/DS-ST NGÀY 10/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Trong ngày 10 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiểu Cần xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 48/2021/TLST-DS, ngày 25 tháng 10 năm 2021, về việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2022/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 4 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số: 60/2022/QĐST- DS, ngày 20 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Thạch Thị Sa R, sinh năm 1976 (có mặt);

Địa chỉ: Ấp Tr, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

- Bị đơn: Anh Sơn Sa M, sinh năm 1980 và chị Thạch Thị Kim L, sinh năm 1982 (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: Ấp Tr, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh;

- Người phiên dịch tiếng Khmer: Ông Thạch Thia R – Giáo viên hưu trí (có mặt).

Địa chỉ: Ấp Cây Hẹ, xã P, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 21/10/2021 và lời khai trong quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn chị Thạch Thị Sa R trình bày: Chị có tham gia 02 dây hụi số 03 và 04 mỗi dây một phần hụi do anh Sơn Sa M và chị Thạch Thị Kim L làm đầu thảo, loại hụi 5.000.000 đồng, thỏa thuận lời nói ai kêu thăm cao thì hốt hụi, trừ hoa hồng đầu thảo là 1.500.000 đồng, có 15 phần hụi, hụi mở ngày 20/11/2019, 01 tháng khui hụi 02 lần. Trong dây hụi chị L và anh M ghi chị tên “Sa Rinh Man”. Hụi khui được 12 kỳ thì chị L và anh M không khui hụi tiếp và cho rằng vỡ hụi. Chị đã đóng hụi sống cho chị L và anh M với số tiền là 40.270.000 đồng. Sau khi vỡ hụi chị L và anh M có trả cho chị là 9.700.000 đồng còn nợ là 30.570.000 đồng nhưng chị đồng ý trừ nợ còn là 30.000.000 đồng.

Nay chị xin thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện là chỉ yêu cầu chị L và anh M có trách nhiệm trả cho chị số tiền đóng hụi sống là 30.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn chị Thạch Thị Kim L vắng mặt không có lời trình bày.

Bị đơn anh Sơn Sa M vắng mặt nhưng theo biên bản lấy lời khai ngày 30/5/2022 có nội dung: Anh có nghe vợ anh là chị L nói có thiếu nợ tiền hụi Chị R còn nợ cụ thể bao nhiêu thì anh không biết, vợ chồng anh có trực tiếp đứng ra trả nợ cho Chị R nhiều lần nhưng không nhớ cụ thể từng lần mà chỉ nhớ là trả hơn 10.000.000 đồng. Anh đồng ý cùng chị L trả nợ cho Chị R sau khi đã trừ đi số tiền mà vợ chồng anh đã trả và với điều kiện là khi nào các hụi viên khác trả nợ cho vợ chồng anh vì hiện tại vợ chồng anh bị các hụi viên khác giật tiền hụi không có tiền để trả nợ. Theo đơn khởi kiện của Chị R là đúng anh không ý kiến gì.

Những vấn đề mà các đương sự đã thống nhất:

Anh Sơn Sa M thừa nhận vợ chồng có làm đầu thảo hụi và hiện còn nợ tiền hụi Chị R.

Những vấn đề các đương sự không thống nhất:

Chị R yêu cầu chị L và anh M trả số tiền hụi còn nợ là 30.000.000 đồng Anh M đồng ý cùng chị L trả nợ cho Chị R sau khi đã trừ đi số tiền mà vợ chồng anh đã trả và với điều kiện là khi nào các hụi viên khác trả nợ cho vợ chồng anh vì hiện tại vợ chồng anh bị các hụi viên khác giật tiền hụi không có tiền để trả nợ.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn tham gia tố tụng trong vụ án đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, riêng bị đơn chưa chấp đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm.

Về nội dung vụ án: Anh M thừa nhận chị L có làm chủ đầu thảo hụi anh có nghe vợ anh là chị L nói có thiếu nợ tiền hụi Chị R còn cụ thể bao nhiêu thì anh không biết, vợ chồng anh có trực tiếp đứng ra trả nợ cho Chị R nhiều lần nhưng không nhớ cụ thể từng lần mà chỉ nhớ là trả hơn 10.000.000 đồng. Anh đồng ý cùng chị L trả nợ cho Chị R sau khi đã trừ đi số tiền mà vợ chồng anh đã trả và với điều kiện là khi nào các hụi viên khác trả nợ cho vợ chồng anh vì hiện tại vợ chồng anh bị các hụi viên khác giật tiền hụi không có tiền để trả nợ. Chị L và anh M là chủ đầu thảo hụi có hưởng hoa hồng phải trả tiền hụi vốn mà các hụi viên đã đóng nhưng chị L và anh M không thực hiện nghĩa vụ của chủ hụi đối với hụi viên là đã vi phạm nghĩa vụ của chủ hụi đối với hụi viên còn sống, nên lời trình bày của anh M về phương thức trả nợ là không có căn cứ, từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc chị L và anh M có nghĩa vụ trả cho Chị R số tiền là 30.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về nội dung vụ án: Nguyên đơn tranh chấp với bị đơn số tiền vốn gốc góp hụi là 30.000.000 đồng là có thật mặc dù các bên không có lập thành hợp đồng nhưng bị đơn có lập danh sách hụi và giao cho nguyên đơn giữ, khi thực hiện hợp đồng các bên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, các bên thực hiện hợp đồng hoàn toàn tự nguyện, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Việc các bên thực hiện hợp đồng góp hụi bằng lời nói là phù hợp quy định tại Điều 119 và Điều 471 của Bộ luật Dân sự năm 2015, do đó hợp đồng có hiệu lực đối với các bên.

[2] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án hợp lệ cho chị L nhưng chị không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Còn đối anh M mặc dù không đứng ra trực tiếp tổ chức góp hụi nhưng anh biết vợ anh tổ chức góp hụi và anh cũng đồng ý cùng vợ anh trả nợ cho Chị R. Chị L và anh M đang tồn tại mối quan hệ hôn nhân và khoản nợ này phát sinh trong thời kỳ hôn nhân nên đây là khoản nợ chung của vợ chồng. Hội đồng xét xử xét thấy đây là tình tiết không phải chứng minh phù hợp với quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vì nguyên đơn đưa ra yêu cầu chị L không phản đối và anh M thừa nhận có nợ nguyên đơn. Việc nguyên đơn yêu cầu khởi kiện là thực hiện đúng quyền của hụi viên được quy định tại Điều 15 của Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chỉnh Phủ quy định “Về họ, hụi, biêu, phường”. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

[3] Đối với ý kiến của anh M đồng ý cùng chị L trả nợ cho Chị R nhưng với điều kiện Chị R phải chờ vợ anh kiện người khác lấy được tiền vì hiện tại vợ chồng anh không có tiền để trả nợ là không có cơ sở chấp nhận vì anh thừa nhận có nợ thì phải có trách nhiệm trả nợ cho Chị R theo quy định của pháp luật. Đối với ý kiến của anh là đã trả nợ cho Chị R hơn 10.000.000 đồng nhưng anh không có gì để chứng minh, Chị R cũng thừa nhận đã nhận của vợ chồng anh số tiền là 9.700.000 đồng và Chị R đồng ý giảm trừ thêm là 570.000 đồng, là phù hợp với lời khai của anh. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở ghi nhận số tiền mà vợ chồng anh đã trả cho Chị R là 10.270.000 đồng.

[4] Tuy chị L là người trực tiếp tổ chức góp hụi và anh M không có trực tiếp cùng tổ chức góp hụi nhưng anh M cũng đồng ý cùng chị L trả nợ cho nguyên đơn, nên đây là nghĩa vụ chung của vợ chồng phù hợp với quy định tại Điều 37 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Nguyên đơn xin thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện từ số tiền gốc đầu là 40.270.000 đồng giảm xuống còn là 30.000.000 đồng, việc thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện và không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[6] Xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ.

[7] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, 35, 39, 91, 92, 147, 227, 228, Khoản 1 Điều 244; 273 và 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 117, 119, 429, khoản 2 Điều 468, 471 của Bộ Luật Dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 37 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định “Về họ, hụi, biêu, phường”;

Áp dụng Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Thạch Thị Sa R.

Buộc anh Sơn Sa M và chị Thạch Thị Kim L có nghĩa vụ liên đới trả nợ cho chị Thạch Thị Sa R số tiền là 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng). Chị R không yêu cầu tính lãi.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bên được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án), cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc anh Sơn Sa M và chị Thạch Thị Kim L phải chịu là 1.500.000 đồng.

Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho chị Thạch Thị Sa R số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm là 495.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0002697, ngày 25/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiểu Cần.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Bản án được niêm yết công khai để xin xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 69/2022/DS-ST

Số hiệu:69/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiểu Cần - Trà Vinh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về