Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 57/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO – TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 57/2022/DS-ST NGÀY 17/02/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 17 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 252/2021/TLST-DS ngày 11 tháng 11 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2022/QĐXX-ST ngày 17 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Hồng L, sinh năm 1975; Địa chỉ: ấp T, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Người đại diện theo ủy quyền: Chị Huỳnh Hoàng P, sinh năm 1985 (xin vắng mặt);

Địa chỉ: Số 117/9 Hoàng V, Phường 5, thành phố X, tỉnh Tiền Giang.

(Theo văn bản ủy quyền ngày 02/6/2021) Bị đơn: Chị Phan Phạm Thái Hồng N (Tên thường gọi A), sinh năm 1973 (xin vắng mặt);

Anh Đỗ Kim M, sinh năm 1971 (xin vắng mặt).

Cùng địa chỉ: ấp T, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 02/6/2021 của nguyên đơn Phạm Thị Hồng L và trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện ủy quyền của nguyên đơn là chị Huỳnh Hoàng P trình bày:

Chị Phạm Thị Hồng L là hụi viên do chị Phan Phạm Thái Hồng N (Tên thường gọi là A) làm đầu thảo. Chị L tham gia dây hụi của chị N như sau:

Dây hụi 2.000.000đồng, khởi hụi ngày 10/12/2018, dây hụi này có 20 phần, chị L tham gia 01 phần, mỗi tháng khui một lần. Hụi đóng hết kỳ thứ 19 thì ngừng. Tổng cộng dây hụi này chị N còn nợ chị L số tiền là 1.600.000đồng x 19 phần = 30.400.000đồng.

Sau đó, khoảng tháng 02/2020 chị N có trả cho chị L 10.400.000đồng, còn nợ lại 20.000.000đồng và chị N có viết biên nhận kèm theo.

Trong thời gian chị N làm chủ hụi nhiều năm, chồng của chị N là anh Đỗ Kim M đều biết việc thu góp hụi. Đồng thời anh M không có đi làm, mọi thu nhập của chị N là dùng vào việc chung của gia đình, anh M cũng biết việc chị N làm chủ hụi nên trách nhiệm này là trách nhiệm liên đới của hai vợ chồng. Do không thỏa thuận được với chị N về việc thanh toán tiền hụi nên chị L khởi kiện yêu cầu chị Phan Phạm Thái Hồng N (A) và chồng là anh Đỗ Kim M có trách nhiệm liên đới trả cho chị L tổng số tiền hụi còn nợ là 20.000.000đồng. Yêu cầu trả khi án có hiệu lực pháp luật.

- Theo Bản tự khai ngày 29/11/2021 bị đơn chị Phan Phạm Thái Hồng N trình bày: Chị N tên thường gọi ở nhà là A, chồng chị là anh M tên thường gọi là K. Chị L có tham gia một dây hụi 2.000.000đồng, khui ngày 10/12/2018, gồm 20 phần, chị L tham gia một phần, chị L đã đóng được 19 tháng x 1.600.000đồng = 30.400.000đồng. Chị N đã trả cho chị L được 10.400.000đồng, hiện còn nợ lại chị L 20.000.000đồng. Chị N đồng ý trả cho chị L số tiền 20.000.000đồng.

- Tại Biên bản hòa giải ngày 23/12/2021và tại Bản tự khai bị đơn anh Đỗ Kim M trình bày:

Anh M là chồng của chị Phan Phạm Thái Hồng N (tên thường gọi A). Việc tổ chức hụi của chị N thì anh biết nhưng anh không rõ chơi với ai và bao nhiêu dây hụi. Kinh tế gia đình thì ai có tiền người đó lo, anh làm thợ mộc, phụ xe. Do đó anh M không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị L.

* Ý kiến của chị P: Chị P vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của chị L, và không đồng ý theo ý kiến của anh M.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về nội dung giải quyết vụ án Đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Phạm Thị Hồng L về việc yêu cầu bị đơn Phan Phạm Thái Hồng C và Đỗ Kim M liên đới trả cho chị L số tiền hụi 20.000.000 đồng, trả làm một lần khi án có hiệu lực pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ lời trình chịy của đại diện ủy quyền của nguyên đơn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn chị Phạm Thị Hồng L khởi kiện yêu cầu bị đơn chị Phan Phạm Thái Hồng N và anh Đỗ Kim M trả số tiền hụi còn nợ 20.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử xác định đây là “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo quy định tại Điều 471 của Bộ luật dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn có nơi cư trú tại ấp T, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang nên thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện C theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét người đại diện ủy quyền của nguyên đơn là chị Huỳnh Hoàng P và bị đơn chị Phan Phạm Thái Hồng N, anh Đỗ Kim M có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt chị P, chị N, anh M.

[3] Đối với yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Hồng L khởi kiện yêu cầu chị Phan Phạm Thái Hồng N và anh Đỗ Kim M trả số tiền hụi còn nợ 20.000.000 đồng, Hội đồng xét xử xét thấy:

[3.1] Chị L và chị N đều thống nhất việc chị L có tham gia chơi dây hụi 2.000.000đồng, khui hụi ngày 10/12/2018, dây hụi này có 20 phần, chị L tham gia 01 phần, mỗi tháng khui 01 lần. Hụi đóng hết kỳ thứ 19 thì ngừng. Tổng cộng số tiền trong dây hụi mà chị L đã đóng cho chị N là 30.400.000đồng. Sau đó chị N có trả cho chị L số tiền 10.400.000đồng, còn nợ lại số tiền 20.000.000đồng. Chị N thừa nhận còn nợ và đồng ý trả cho chị L 20.000.000đồng.

Do đó, Hội đồng xét xử xác định chị N còn nợ chị L số tiền hụi là 20.000.000 đồng, buộc N có nghĩa vụ trả cho chị L số tiền 20.000.000 đồng.

[3.2] Xét yêu cầu của chị L về việc yêu cầu anh M liên đới cùng chị N trả số tiền hụi 20.000.000 đồng cho chị L: Chị L cho rằng trong thời gian chị N làm chủ hụi nhiều năm, chồng của chị N là anh Đỗ Kim M đều biết việc thu góp hụi. Đồng thời anh M không có đi làm, mọi thu nhập của chị N là dùng vào việc chung của gia đình, anh M cũng biết việc chị N làm chủ hụi nên trách nhiệm này là trách nhiệm liên đới của hai vợ chồng; Phía anh M cho rằng việc tổ chức hụi của chị N thì anh có biết nhưng anh không rõ chơi với ai và bao nhiêu dây hụi, tuy nhiên anh M thừa nhận kinh tế gia đình thì ai có tiền người đó lo. Tại Biên bản xác minh ngày 11/02/2020, ông Phan Chí H – Trưởng ấp T, xã B, huyện C cho biết: Chị N làm hụi từ nhiều năm, nhưng không nhớ chính xác năm nào. Trong quá trình tham gia hụi, chị N là người trực tiếp giao nhận hụi với các hụi viên, anh M là chồng chị N không trực tiếp chơi hụi nhưng thỉnh thoảng hụi viên có đến nhà đóng tiền hụi cho chị N thì anh M có nhận tiền hụi dùm của hụi viên để về chuyển cho chị N. Lúc chị N tham gia làm hụi thì chị N có mở quán tạp hóa và anh M chăn nuôi heo, bò tại nhà, nguồn thu nhập chính của chị N và anh M là từ bán quán và chăn nuôi, chơi hụi chỉ là một phần thu nhập thêm. Do đó, Hội đồng xét xử xác định đây là nợ chung của vợ chồng chị N, anh M trong thời kỳ hôn nhân, nên yêu cầu của chị L về việc buộc anh M liên đới cùng chị N trả tiền cho chị L là có cơ sở chấp nhận.

Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L, buộc anh M liên đới cùng chị N trả cho chị L số tiền 20.000.000 đồng.

[3.3] Về thời gian trả tiền: Chị L yêu cầu chị N, anh M trả số tiền hụi 20.000.000 đồng khi án có hiệu lực pháp luật là có cơ sở. Hiện chị N, anh M đã vỡ vụi và nợ tiền của chị L quá lâu làm ảnh hưởng đến quyền lợi của chị L nên Hội đồng xét xử buộc chị N, anh M có nghĩa vụ trả cho chị L số tiền 20.000.000 đồng khi bản án có hiệu lực pháp luật.

[5] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của chị L được Tòa án chấp nhận nên chị N, anh M phải chịu án phí theo quy định.

[6] Xét ý kiến và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là đúng quy định pháp luật tố tụng và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 228, Điều 229, của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào Điều 357, Điều 471, Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Căn cứ vào Điều 27 của Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 02 năm 2019 về họ, hụi, biêu, phường.

Căn cứ vào Điều 29 của Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2006 về họ, hụi, biêu, phường.

Căn cứ Điều 27 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Hồng L.

Buộc chị Phan Phạm Thái Hồng N (tên thường gọi là A) và anh Đỗ Kim M có nghĩa vụ liên đới trả cho chị Phạm Thị Hồng L số tiền hụi còn nợ 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng). Thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày chị Phạm Thị Hồng L có đơn yêu cầu thi hành án nếu chị Phan Phạm Thái Hồng N (tên thường gọi là A) và anh Đỗ Kim M không trả số tiền trên thì hàng tháng chị N, anh M phải trả lãi tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Về án phí: Chị Phan Phạm Thái Hồng N (tên thường gọi là A) và anh Đỗ Kim M phải liên đới chịu 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại cho chị Phạm Thị Hồng L 500.000đồng (Năm trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005106 ngày 10/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Gạo.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự được quyền kháng cáo đến Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành theo qui định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 57/2022/DS-ST

Số hiệu:57/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:17/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về