Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 336/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 336/2023/DS-PT NGÀY 16/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 16 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 232/2023/TLPT-DS ngày 17/7/2023 về “Tranh chấp hợp đồng góp hụi”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 41/2023/DS-ST ngày 13/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2535/2023/QĐ-PT ngày 08/8/2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1977 Địa chỉ: Khu phố P, thị trấn P, huyện M, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Bà Võ Thị Mộng T, sinh năm 1978 Địa chỉ: Khu phố P, thị trấn P, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Địa chỉ liên hệ: Ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

3. Người kháng cáo: Bị đơn bà Võ Thị Mộng T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng nguyên đơn bà Nguyễn Thị K trình bày:

Bà T tham gia 03 dây hụi do bà làm chủ hụi, mỗi dây hụi bà T tham gia 02 phần, mỗi phần 1.000.000 đồng, cụ thể như sau:

- Dây hụi thứ nhất: Hụi 1.000.000 đồng, khui ngày 25 tháng 01 năm 2020 âm lịch, hụi có 25 phần, hụi mỗi tháng khui một lần, bà T tham gia chơi 02 phần, hụi mãn ngày 25/12/2021 âm lịch.

+ Phần hụi thứ nhất của dây hụi thứ nhất: Sau khi khui hụi thì bà T đóng hụi sống được 02 tháng (tháng 01 đóng 770.000 đồng; tháng 02 đóng 745.000 đồng), đến tháng 3 năm 2020 âm lịch thì bà T hốt hụi, hốt được số tiền 17.500.000 đồng (hụi kêu 270.000 đồng, trừ thảo 500.000 đồng), bà đã giao đủ số tiền hụi cho bà T, bà T có ký nhận tiền. Sau khi hốt hụi bà T đóng được 16 tháng hụi chết là đóng từ tháng 4/2020 âm lịch đến hết tháng 3/2021 âm lịch, từ tháng 4/2021 âm lịch đến tháng 12/2021 âm lịch bà T chưa đóng hụi chết cho bà. Do đó phần hụi thứ nhất của dây hụi này bà T còn nợ bà 9 tháng hụi chết với số tiền là 9.000.000 đồng.

+ Phần hụi thứ hai của dây hụi thứ nhất: Sau khi khui hụi bà T đóng được 03 tháng (tháng 01 đóng 770.000 đồng, tháng 02 đóng 745.000 đồng, tháng 3 đóng 730.000 đồng) đến tháng 4/2020 âm lịch bà T hốt hụi số tiền 18.500.000 đồng (kêu 240.000 đồng, trừ thảo 500.000 đồng), bà T có ký nhận tiền và bà đã giao đủ tiền hụi cho bà T. Sau khi hốt hụi bà T có đóng hụi chết từ tháng 4/2020 âm lịch đến tháng 3/2021 âm lịch, từ tháng 4/2021 âm lịch đến tháng 12/2021 âm lịch mãn hụi bà T chưa đóng hụi chết. Do đó phần hụi thứ hai của dây hụi này bà T còn nợ bà 9 tháng hụi chết với số tiền là 9.000.000 đồng.

Tổng hai phần hụi của dây hụi thứ nhất này bà T còn nợ bà là 9 tháng x 2 phần x 1.000.000 đồng/tháng = 18.000.000 đồng.

- Dây hụi thứ hai: Hụi 1.000.000 đồng, khui ngày mùng 5 tháng 02 năm 2020 âm lịch, có 25 phần, hụi mỗi tháng khui một lần, bà T gia chơi 02 phần, hụi mãn ngày mùng 5 tháng 01 năm 2022 âm lịch.

+ Phần hụi thứ nhất của dây hụi thứ hai: Sau khi khui hụi thì bà T đóng hụi sống được 02 tháng (tháng 02 đóng 750.000 đồng; tháng 03 đóng 730.000 đồng), đến tháng 4 năm 2020 âm lịch thì bà T hốt hụi, hốt được số tiền là 18.250.000 đồng (hụi kêu 250.000 đồng, trừ thảo 500.000 đồng), bà đã giao đủ tiền hụi cho bà T, bà T có ký nhận tiền. Sau khi hốt hụi bà T đóng được 16 tháng hụi chết là từ tháng 5/2020 âm lịch đến hết tháng 4/2021 âm lịch, từ tháng 5/2021 âm lịch đến tháng 01/2022 âm lịch bà T chưa đóng hụi chết. Do đó phần hụi thứ nhất của dây hụi này bà T còn nợ bà 9 tháng hụi chết với số tiền là 9.000.000 đồng.

+ Phần hụi thứ hai của dây hụi thứ hai: Sau khi khui hụi bà T đóng hụi sống được từ tháng 02/2020 âm lịch đến tháng 12/2020 âm lịch, đến tháng 01/2021 âm lịch bà T hốt hụi số tiền hụi là 21.500.000 đồng (kêu 150.000 đồng, trừ thảo 500.000 đồng), bà T có ký nhận tiền và bà đã giao đủ tiền hụi cho bà T, bà T đóng hụi chết 03 tháng (tháng 2, 3 và 4), từ tháng 5/2021 đến tháng 01/2022 âm lịch mãn hụi bà T chưa đóng hụi chết. Do đó phần hụi thứ hai của dây hụi này bà T còn nợ bà 9 tháng hụi chết với số tiền là 9.000.000 đồng.

Tổng hai phần hụi của dây hụi thứ nhất này bà T còn nợ bà là 9 tháng x 2 phần x 1.000.000 đồng/tháng = 18.000.000 đồng.

- Dây hụi thứ ba: Hụi 1.000.000 đồng, khui ngày 15 tháng 3 năm 2020, có 26 phần, hụi mỗi tháng khui một lần, bà T tham gia chơi 02 phần, hụi mãn ngày 15 tháng 3 năm 2022 âm lịch.

+ Phần hụi thứ nhất của dây hụi thứ ba: Sau khi khui hụi thì bà T hốt đầu hốt được số tiền 18.750.000 đồng (hụi kêu 230.000 đồng, trừ thảo 500.000 đồng), sau khi hốt hụi bà T có đóng hụi chết từ tháng 4/2020 âm lịch đến hết tháng 4/2021 âm lịch là 15 tháng, từ tháng 5/2021 âm lịch đến mãn ngày là tháng 3/2022 âm lịch bà T không có đóng hụi chết. Do đó, bà T còn nợ phần hụi này 11 tháng với số tiền hụi là 11.000.000 đồng.

+ Phần hụi thứ hai của dây hụi thứ ba: Sau khi khui hụi bà T đóng được 12 tháng hụi sống (tháng 3/2020 âm lịch đến tháng 3/2021 âm lịch) tháng 4/2021 âm lịch bà T hốt hụi số tiền 22.000.000 đồng (kêu 150.000 đồng, trừ thảo 500.000 đồng), bà T không có ký nhận tiền do số tiền 22.000.000 đồng bà và bà T thống nhất trừ 11 tháng hụi chết của dây hụi này. Đối với số tiền 11.000.000 đồng còn lại bà và bà T thỏa thuận trừ vào số tiền hụi mà bà T đã nợ những tháng hụi sống và hụi chết trước đây bà đã đóng gòng hụi cho bà T và sau khi cấn trừ bà T vẫn còn nợ bà số tiền bà đã gòng hụi là 3.520.000 đồng.

Như vậy, sau khi cấn trừ thì bà T chỉ còn nợ bà 05 phần hụi chết đến mãn hụi với số tiền là 47.000.000 đồng. Mặc dù số tiền mà bà gòng hụi cho bà T sau khi cấn trừ nhiều hơn số tiền 3.520.000 đồng nhưng do sai sót trong lúc tính toán nên nay bà chỉ yêu cầu bà T trả cho bà số tiền 2.900.000 đồng. Tổng số tiền bà yêu cầu bà T phải hoàn trả cho bà là 49.900.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

Bà chỉ khởi kiện đối với bà T, số tiền hụi này không liên quan đến ông Nguyễn Văn L nên bà không khởi kiện đối với ông L.

Trong quá trình tố tụng, bị đơn bà Võ Thị Mộng T trình bày như sau:

Bà có tham gia chơi các dây hụi do bà K làm chủ, bà thống nhất về số dây hụi, ngày tháng năm khui hụi, ngày tháng năm hốt hụi cũng như số tiền hụi đã hốt và đã đóng hụi cho bà K như bà K đã trình bày, bà nhận tiền tổng cộng 05 phần hụi. Tuy nhiên, tháng 4/2021 âm lịch bà có hốt phần hụi thứ hai của dây hụi thứ ba với bà số tiền 22.000.000 đồng, bà không có nhận tiền mặt từ phần hụi này mà hai bên thoả thuận sẽ cấn trừ 11 tháng hụi chết của phần hụi này cho đến mãn, phần hụi này bà không còn nợ bà T như bà T đã trình bày. Còn 11.000.000 đồng còn lại bà đồng ý trả tiền gòng hụi của các dây hụi mà bà K đã đóng gòng thay bà. Từ tháng 4/2021 âm lịch, bà xác định vẫn còn nợ hụi chết của các dây hụi như bà K trình bày vì thời điểm này hụi chưa mãn và bà đã đóng mỗi tháng 5.000.000 đồng hụi chết cho các dây hụi này đến hạn cho đến mãn hụi nên không còn nợ bà K bất cứ số tiền hụi chết nào, số tiền hụi bà K gòng bà không biết bao nhiêu nhưng bà cũng đã trả hết nên không còn nợ bà K bất cứ số tiền nào. Khi chơi hụi bà K có giao giấy hụi cho bà giữ nhưng hụi mãn nên bà không còn giữ giấy hụi, khi hốt hụi nhận tiền thì bà có ký nhận, khi đóng hụi chết thì gặp bà K ở đâu bà đóng ở đó, việc đóng hụi chết bất kể hụi viên nào cũng không có giấy tờ gì, bà không có yêu cầu bà K xác nhận việc bà đã đóng hụi chết cho bà K.

Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc đã đưa vụ án ra xét xử.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 41/2023/DS-ST ngày 13/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc đã áp dụng Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị định số 19/20019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị K.

Buộc bà Võ Thị Mộng T phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Nguyễn Thị K số tiền hụi là 49.900.000 đồng. Ghi nhận việc bà Nguyễn Thị K không yêu cầu tính lãi.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 27/6/2022, bị đơn bà Võ Thị Mộng T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, bà không đồng ý trả số tiền nợ hụi 49.900.000 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn thay đổi một phần nội dung kháng cáo, bà T trình bày: Do không có chứng cứ để chứng minh nên bà đồng ý với số tiền nợ hụi 49.900.000 đồng như bản án sơ thẩm đã tuyên, tuy nhiên bà đề nghị được trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng. Đồng thời, bà yêu cầu bà K không được có những phát biểu gây ảnh hưởng đến gia đình bà.

Nguyên đơn không đồng ý với kháng cáo của bị đơn, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bà Võ Thị Mộng T, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 41/2023/DS-ST ngày 13/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên; xét kháng cáo của bà Võ Thị Mộng T; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn bà K cho rằng bị đơn bà T còn nợ số tiền hụi chết tính đến khi mãn hụi của 05 phần hụi với số tiền là 47.000.000 đồng và số tiền 2.900.000 đồng mà nguyên đơn đã nộp thay tiền hụi cho bị đơn nên khởi kiện yêu cầu bà T phải hoàn trả số tiền nợ hụi tổng cộng là 49.900.000 đồng. Trong khi đó, bà T cho rằng bà đã hoàn trả toàn bộ số tiền nợ hụi nên không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn thừa nhận có tham gia chơi hụi và đã hốt hụi, đã nhận đủ tiền hụi như nguyên đơn trình bày nên căn cứ vào Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử xác định đây là sự việc có thật nguyên đơn không phải chứng minh.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn thay đổi nội dung kháng cáo, đồng ý còn nợ nguyên đơn số tiền 49.900.000 đồng như bản án sơ thẩm đã tuyên vì không có chứng cứ chứng minh đã đóng hụi đầy đủ. Do đó, cấp sơ thẩm tuyên buộc bị đơn trả số tiền nợ hụi 49.900.000 đồng là có căn cứ.

[4] Đối với yêu cầu trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng của bà T không được bà K đồng ý và pháp luật cũng không quy định nên yêu cầu này không được chấp nhận.

[5] Về việc bà T yêu cầu bà K không được có những phát biểu gây ảnh hưởng đến gia đình bà, nhận thấy nội dung này không thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm nên cấp phúc thẩm không xem xét.

Từ những nhận định trên, Tòa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp, kháng cáo của bị đơn không có căn cứ nên không được chấp nhận.

[6] Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[7] Về án phí: Bà Võ Thị Mộng T là thân nhân liệt sĩ nên được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Do đó, đối với phần án phí sơ thẩm cấp phúc thẩm sẽ điều chỉnh lại cho phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Không chấp nhận kháng cáo của bà Võ Thị Mộng T;

Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 41/2023/DS-ST ngày 13/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre. Tuy nhiên có điều chỉnh đối với án phí sơ thẩm.

Áp dụng Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị định số 19/20019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; điể đ khoản 1 Điều 12, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị K.

Buộc bà Võ Thị Mộng T phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Nguyễn Thị K số tiền hụi là 49.900.000đ (Bốn mươi chín triệu chín trăm nghìn đồng). Ghi nhận việc bà Nguyễn Thị K không yêu cầu tính lãi.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

[2] Về án phí:

Bà Võ Thị Mộng T được miễn.

Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị K số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.248.000đ (Một triệu hai trăm bốn mươi tám nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số 0007773 ngày 03/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 336/2023/DS-PT

Số hiệu:336/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về