TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 235/2022/DS-PT NGÀY 30/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI
Trong ngày 30 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An mở phiên tòa để xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 214/2022/TLPT-DS ngày 07 tháng 7 năm 2022 về “Tranh chấp hợp đồng góp hụi”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 31/2022/DS-ST ngày 18 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 239/2022/QĐ-PT ngày 04 tháng 8 năm 2022, giữa:
1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Mỹ L, sinh năm 1975;
Địa chỉ: Số 182, ấp B, xã T, thị xã K, tỉnh Long An.
2. Bị đơn:
2.1. Ông Nguyễn Thanh N, sinh năm 1975;
2.2. Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1974;
Cùng địa chỉ: Số 57, ấp B, xã T, thị xã K, tỉnh Long An..
3. Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị D.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện của bà Huỳnh Thị Mỹ L cùng những lời trình bày như sau:
Ông Nguyễn Thanh N và bà Nguyễn Thị D là vợ chồng. Bà D có tham gia các dây hụi do bà L làm chủ thảo. Bà L đã khởi kiện lần thứ nhất phần hụi đã đóng thay cho bà D theo bản án dân sự sơ thẩm số 34/2020/DS-ST ngày 04 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã Kiến Tường, bản án dân sự phúc thẩm số 118/2021/DS-PT ngày 05 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An, bản án dân sự sơ thẩm số 51/2021/DS-ST ngày 07 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã Kiến Tường, bản án dân sự phúc thẩm số 88/2022/DS-PT ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An. Theo 04 bản án trên tuyên buộc ông N và bà D phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà L số tiền tổng cộng 464.860.000 đồng + 110.000.000 đồng = 574.860.000 đồng. Hiện nay trong 04 dây hụi này có 01 dây hụi đã mãn, 03 dây hụi vẫn còn vài lần chưa đến kỳ. Vì vậy, bà tiếp tục đóng thay cho bà D và sẽ khởi kiện sau. Sau khi khởi kiện lần thứ nhất và lần thứ hai, bà L tiếp tục đóng thay thêm cho bà D 04 dây hụi với số tiền tổng cộng 40.000.000 đồng, cụ thể như sau:
Dây hụi 1: Dây hụi 10.000.000 đồng mở ngày 25/9/2016 dương lịch, 04 tháng khui một lần, bà D đã hốt và phải đóng 06 lần hụi chết. Bà khởi kiện lần thứ nhất và lần thứ hai đã được chấp nhận 05 lần. Đến tháng 8 năm 2021, bà đã đóng thay cho bà D thêm 01 lần x 10.000.000 đồng = 10.000.000 đồng. Dây hụi này đã mãn.
Dây hụi 2: Dây hụi 5.000.000 đồng mở ngày 14/7/2018 dương lịch, 03 tháng khui một lần, bà D đã hốt và phải đóng 12 lần hụi chết. Bà khởi kiện lần thứ nhất và lần thứ hai đã được chấp nhận 09 lần. Đến tháng 9 năm 2021, bà đã đóng thay cho bà D thêm 02 lần x 5.000.000 đồng = 10.000.000 đồng. Dây hụi này còn 01 lần x 5.000.000 đồng = 5.000.000 đồng là mãn hụi, bà đã đóng thay cho bà D nhưng chưa khởi kiện trong vụ án này.
Dây hụi 3: Dây hụi 5.000.000 đồng mở ngày 8/4/2017 dương lịch, 03 tháng khui một lần, bà D đã hốt và phải đóng 10 lần hụi chết. Bà khởi kiện lần thứ nhất và lần thứ hai đã được chấp nhận 07 lần. Đến tháng 8 năm 2021, bà đã đóng thay cho bà D thêm 02 lần x 5.000.000 đồng = 10.000.000 đồng. Dây hụi này còn 01 lần x 5.000.000 đồng = 5.000.000 đồng là mãn hụi, bà đã đóng thay cho bà D nhưng chưa khởi kiện trong vụ án này.
Dây hụi 4: Dây hụi 5.000.000 đồng mở ngày 25/9/2017 dương lịch, 03 tháng khui một lần, bà D đã hốt và phải đóng 11 lần hụi chết. Bà khởi kiện lần thứ nhất và lần thứ hai đã được chấp nhận 07 lần. Đến tháng 4 năm 2021, bà đã đóng thay cho bà D thêm 02 lần x 5.000.000 đồng = 10.000.000 đồng. Dây hụi này còn 02 lần x 5.000.000 đồng = 10.000. 000 đồng là mãn hụi, bà đã đóng thay cho bà D nhưng chưa khởi kiện trong vụ án này.
Mục đích bà D tham gia chơi hụi nhằm tìm kiếm lợi nhuận để phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của gia đình ông N và bà D. Khi tham gia chơi hụi, bà D không cầm cố, thế chấp tài sản cho bà. Nay bà khởi kiện yêu cầu ông N và bà D phải thực hiện nghĩa vụ liên đới trả cho bà số tiền hụi chết của 04 dây hụi với số tiền tổng cộng 40.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi.
Bị đơn bà Nguyễn Thị D, ông Nguyễn Thanh N trình bày:
Ông bà chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn từ năm 2000 đến nay. Từ khoảng năm 2015 đến nay, bà D tham gia chơi nhiều dây hụi trong đó có 06 dây hụi do bà L làm chủ thảo như lời trình bày nêu trên của bà L là đúng sự thật. Ông N không có tham gia chơi 06 dây hụi này. Khi bà D hốt hụi thì bà L trừ hết các dây hụi khác, còn giao cho bà D chỉ 10.000.000 đồng. Bà L đóng thay các dây hụi trên cho bà D nhưng bà D không có kêu bà L đóng thay và bà L cũng không có giấy tờ chứng minh đóng thay hụi cho bà D. Kể từ khi bà D hốt 06 dây hụi trên đến nay, bà D có đóng hụi chết lại cho bà L nhưng không có làm giấy tờ gì, cũng không có ai thấy ai biết vì khi đó chỉ có bà D và bà L. Do đó, bà D và ông N không đồng ý trả 40.000.000 đồng. Hiện nay, bà L còn nợ bà D 21.000.000 đồng không có làm giấy tờ gì nhưng bà D không có khởi kiện gì đối với bà L.
Tòa án nhân dân thị xã Kiến Tường đã tiến hành hòa giải nhưng các đương sự không thỏa thuận được.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 31/2022/DS-ST ngày 18 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An đã căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 147, 177, 179, 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 288, 468, 471 của Bộ luật dân sự; các Điều 27, 30, 37 của Luật hôn nhân gia đình; các Điều 3, 6, 24, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị Mỹ L, buộc ông Nguyễn Thanh N và bà Nguyễn Thị D phải thực hiện nghĩa vụ liên đới trả cho bà Huỳnh Thị Mỹ L số tiền 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng).
Về án phí, tạm ứng án phí: Buộc ông Nguyễn Thanh N và bà Nguyễn Thị D phải có nghĩa vụ liên đới chịu 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước. Hoàn trả lại cho bà Huỳnh Thị Mỹ L 1.000.000 đồng (một triệu đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0000518 ngày 22 tháng 10 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Kiến Tường Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo; quyền và nghĩa vụ của các đương sự ở giai đoạn thi hành án.
Bản án chưa có hiệu lực pháp luật.
Ngày 31 tháng 5 năm 2022, bị đơn bà D kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà L.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn bà L vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn bà D vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Bà D trình bày: Bà L và bà có chốt lại 07 dây hụi bà tham gia với số tiền 344.000.000 đồng là do bà L ép bà ký tên, thật ra bà chỉ hốt hụi số tiền tại biên nhận 114.780.000 đồng nhưng bà L chỉ giao cho bà 90.000.000 đồng, còn lại bà L cấn trừ vào hụi chưa góp. Đối với biên nhận nợ 65.000.000 đồng thì bà hoàn toàn không biết. Bà L đã chốt lại nợ của các dây hụi ghi nợ 344.000.000 đồng và đã kiện bà 02 lần đã có bản án nên bà xác định không còn nợ tiền hụi của bà L.
Ông N trình bày: Việc bà D tham gia hụi với bà L như thế nào ông hoàn toàn không biết.
Bà L trình bày: Do bà D vẫn còn nợ của những dây hụi chưa đến ngày mãn nên trước đây bà chưa khởi kiện, số nợ 344.000.000 đồng là chốt lại của nhiều dây hụi bà D đã hốt đến thời điểm chốt, còn nợ những phần chưa góp là thời gian sau khi chốt nợ. Biên nhận nợ 114.780.000 đồng là số tiền bà D hốt hụi, không phải là tiền mượn. Hiện nay, ngoài số tiền bà khởi kiện thì bà D còn nợ 20.000.000 đồng của 03 dây hụi, bà sẽ khởi kiện sau.
Các đương sự không có thỏa thuận gì khác.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu:
Cấp phúc thẩm thực hiện đúng pháp luật về tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình. Bị đơn bà L kháng cáo đúng quy định tại Điều 273, Điều 276 Bộ luật Tố tụng dân sự nên đủ điều kiện xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về yêu cầu kháng cáo: Bà D kháng cáo không đồng ý trả tiền cho bà L vì bà không còn nợ, bà đã góp hụi đầy đủ và khi hốt hụi bà L đã cấn trừ vào hụi chết. Căn cứ vào chứng cứ, lời trình bày của bà D tại bản án dân sự sơ thẩm số 34/2020/DS-ST ngày 04 tháng 9 năm 2020 và Bản án dân sự sơ thẩm số 81/2021/DS-PT ngày 07 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã Kiến Tường đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L về việc buộc bà D, ông N liên đới trả các dây hụi 1, 2, 3, 4 tính tới ngày 20 tháng 4 năm 2021; Sau đó bà D kháng cáo trình bày đã hốt hụi và đã cấn trừ không còn nợ nhưng bà L không thừa nhận, bà L không có căn cứ chứng minh nên bị bác kháng cáo giữ y bản án sơ thẩm tại bản án dân sự phúc thẩm số 118/2021/DS-PT ngày 05 tháng 4 năm 2021 và Bản án dân sự phúc thẩm số 88/2022/DS-PT ngày 28 tháng 4 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An, bản án đã có hiệu lực thi hành. Sau đó bà L tiếp tục khởi kiện bà D đối với những dây hụi chưa mãn mà bà D chưa góp, bà D cũng trình bày không còn nợ vì đã cấn trừ vào số tiền hụi đã hốt. Tuy nhiên, bà D cũng không có căn cứ chứng minh. Đối chiếu với thời gian của những dây hụi với thời gian bà L khởi kiện thì những dây hụi bà L khởi kiện trước đây chưa đến hạn mãn nên bà L chưa có quyền khởi kiện. Vì vậy, sau đó bà L tiếp tục khởi kiện bà D, án sơ thẩm tuyên buộc bà D trả cho bà L số tiền 40.000.000 đồng là có căn cứ. Nên kháng cáo của bà D không có căn cứ chấp nhận.
Đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bà D. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Bị đơn bà D kháng cáo hợp lệ nên vụ án được xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về phạm vi xét xử phúc thẩm: Kháng cáo của bà D về toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm. Căn cứ phạm vi xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung vụ án có liên quan đến kháng cáo.
[3] Xét kháng cáo của bà D thấy rằng:
[3.1] Bà D kháng cáo yêu cầu Tòa án phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L với lý do khi hốt hụi số tiền 114.780.000 đồng thì bà L không giao cho bà D mà để cấn trừ vào tiền đóng hụi chết nhưng các bản án đã xử trước đó nhận định không có việc cấn trừ là không khách quan.
[3.2] Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 118/2021/DS-PT ngày 05 tháng 4 năm 2021 và Bản án dân sự phúc thẩm số 88/2022/DS-PT ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã bác kháng cáo của bà D, giữ y Bản án dân sự sơ thẩm số 34/2020/DS-ST ngày 04 tháng 9 năm 2020 và Bản án dân sự sơ thẩm số 81/2021/DS-PT ngày 07 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã Kiến Tường về việc chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L về việc buộc bà D, ông N liên đới trả các dây hụi 1, 2, 3, 4 tính đến ngày 20 tháng 4 năm 2021. Sau ngày 20 tháng 4 năm 2021 đối với những phần hụi đến hạn góp nhưng bà D không góp, bà L đã góp thay bà D 04 dây hụi cụ thể sau:
1. Dây hụi 10.000.000 đồng mở ngày 25 tháng 9 năm 2016 góp 01 lần vào tháng 8 năm 2021 số tiền 10.000.000 đồng (hụi đã mãn);
2. Dây hụi 5.000.000 đồng mở ngày 14 tháng 7 năm 2018 góp 01 lần 5.000.000 đồng (hụi đã mãn);
3. Dây hụi 5.000.000 đồng mở ngày 08 tháng 4 năm 2017 góp 01 lần 5.000.000 đồng (đã mãn);
4. Dây hụi 5.000.000 đồng mở ngày 25 tháng 9 năm 2017 góp 02 lần là 10.000.000 đồng.
Nên bà L tiếp tục khởi kiện bà D, ông N trả 40.000.000 đồng. Các bản án trên đều nhận định không có việc cấn trừ số tiền hụi 114.780.000 đồng vào hụi chết như lời trình bày của bà D và ông N; bà D cũng không căn cứ để chứng minh có việc cấn trừ số tiền hụi 114.780.000 đồng vào hụi chết và đã góp đủ tiền hụi cho bà L. Cho nên, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L là có căn cứ theo quy định tại các Điều 471 Bộ luật dân sự và Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ.
[4] Từ nhận định mục [3], không chấp nhận kháng cáo của bà D. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm như đề nghị của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà D phải chịu 300.000 đồng theo Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị D.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 31/2022/DS-ST ngày 18 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An.
Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 147, 177, 179, 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 288, 468, 471 của Bộ luật dân sự; các Điều 27, 30, 37 của Luật hôn nhân gia đình;
Căn cứ các Điều 3, 6, 24, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị Mỹ L với ông Nguyễn Thanh N và bà Nguyễn Thị D về tranh chấp hợp đồng góp hụi.
Buộc ông Nguyễn Thanh N và bà Nguyễn Thị D phải thực hiện nghĩa vụ liên đới trả cho bà Huỳnh Thị Mỹ L số tiền 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Nguyễn Thanh N và bà Nguyễn Thị D phải có nghĩa vụ liên đới chịu 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) nộp ngân sách nhà nước.
Hoàn trả lại cho bà Huỳnh Thị Mỹ L 1.000.000 đồng (một triệu đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0000518 ngày 22 tháng 10 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Kiến Tường.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Buộc bà Nguyễn Thị D phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000688 ngày 31 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An (bà Nguyễn Thị D đã nộp đủ án phí).
4. Án xử công khai phúc thẩm có hiệu lực pháp luật thi hành ngay sau khi tuyên án.
Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 235/2022/DS-PT
Số hiệu: | 235/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Long An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về