Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 218/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 218/2022/DS-PT NGÀY 26/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 22 và 26 tháng 8 năm 2022, tại Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 145/2022/TLPT-DS ngày 04 tháng 7 năm 2022 về việc tranh chấp “Hợp đồng góp hụi”.Do bản án dân sự sơ thẩm số: 49/2022/DS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 175/2022/QĐ-PT ngày 06 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

Lê Thị H, sinh năm 1958. (có mặt) Địa chỉ: ấp P, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn:

2.1. Bà Nguyễn Ngọc D, sinh năm 1977. (có mặt)

2.2. Ông Phạm Văn U, sinh năm 1973.

Cùng địa chỉ: ấp P1, xã B, huyện C, Tiền Giang.

Đại diện ủy quyền ông U: Ông Trần Văn Tr, sinh năm 1965. (vắng mặt) Địa chỉ: ấp H, xã H1, huyện C, Tiền Giang.

(Văn bản ủy quyền được công chứng số 1446 ngày 07/4/2022)

4. Người kháng cáo: Bị đơn Nguyễn Ngọc D, Phạm Văn U.

Theo bản án sơ thẩm,

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 16/12/2021 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Lê Thị H trình bày:

Bà H là hụi viên vào năm 2016 có tham gia dây hụi do vợ chồng bà Nguyễn Ngọc D và ông Phạm Văn U làm đầu thảo cụ thể: Hụi 10.000.000 đồng khui ngày 26/01/2016 âm lịch, hụi mùa mỗi năm khui 03 lần theo vụ lúa, gồm 16 hụi viên, bà H tham gia 01 phần đóng hụi sống được 09 lần thì ngưng do vợ chồng D và U không tổ chức khui tiếp và đồng ý hoàn trả số tiền hụi chết 90.000.000 đồng trừ hoa hồng đầu thảo 2.000.000 đồng, còn nợ 88.000.000 đồng. Vợ chồng bà D hứa bán đất sẽ trả lại số tiền hụi này nhưng cho đến nay không trả.

Nay bà H yêu cầu bà Nguyễn Ngọc D và ông Phạm Văn U có nghĩa vụ liên đới trả số tiền nợ hụi 88.000.000 đồng, trả 01 lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Tại bản tự khai ngày 12/01/2022 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn bà Nguyễn Ngọc D trình bày:

Bà D với bà H có góp hụi nhưng không ký hợp đồng bằng văn bản, chỉ giao ước miệng, do bà D làm đầu thảo có nhiều dây hụi, việc góp hụi hoàn toàn không liên quan gì đến chồng bà là ông Phạm Văn U, ông U không biết gì về việc tiền góp hụi hay nhận tiền từ bà H. Về tiền hụi giữa bà D với bà H đã tính toán trừ cấn xong, hụi đã kết thúc không ai còn nợ ai, bà H kiện tiền hụi phải cung cấp chứng cứ làm cơ sở bà D có nợ bao nhiêu tiền có chữ ký của bà D. Do đó, nay bà D không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà H về việc yêu cầu bà D cùng với ông U liên đới trả số nợ hụi 88.000.000 đồng.

Tại bản tự khai ngày 12/01/2022 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn ông Phạm Văn U trình bày:

Ông U khẳng định không có ký tên giao kết hợp đồng bằng văn bản hay hợp đồng miệng góp hụi với bà H, ông U không có nhận tiền gì từ bà H giao, không ký nhận giấy nợ tiền vay mượn hay tiền hụi với bà H. Vợ ông là bà Nguyễn Ngọc D có góp hụi với bà H thì ông U không biết, ông U có nghe bà D vợ ông nói lại đã tính toán trừ tiền hụi xong không còn thiếu tiền hụi của bà H. Do đó, ông U không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà H về việc yêu cầu bà D cùng với ông U liên đới trả số nợ hụi 88.000.000 đồng. Yêu cầu Tòa án xem xét việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của bà H không đúng quy định, nên đề nghị hủy quyết định này.

* Bản án dân sự sơ thẩm số: 49/2022/DS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang đã Căn cứ Điều 471, khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự; Khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271, 272, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 18, 22 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính Phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H.

Buộc ông Phạm Văn U và bà Nguyễn Ngọc D có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Lê Thị H số tiền hụi 88.000.000 đồng (Tám mươi tám triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Tiếp tục duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 19/2021/QĐ-BPKCTT ngày 17/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện C.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 10/5/2022 bị đơn Nguyễn Ngọc D và Phạm Văn U có đơn kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm số 49/2022/DS-ST ngày 26/4/2022 của TAND huyện C, tỉnh Tiền Giang, yêu cầu cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với lý do việc chơi hụi chỉ một mình bà D thực hiện và bà D đã thanh toán đầy đủ cho bà H, hụi mãn đã lâu không còn nợ bà H. Ông U không tham gia chơi hụi, việc bà D làm chủ hụi ông U không biết.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Nguyễn Ngọc D thay đổi yêu cầu kháng cáo. Bà D đồng ý cùng ông Phạm Văn U trả cho bà Lê Thị H 35.000.000 đồng tiền vốn gốc bà H đã đóng hụi. Nguyên đơn bà Lê Thị H thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện đòi bà D cùng ông U trả 50.000.000 đồng tiền nợ hụi bà đã đóng. Người đại diện theo ủy quyền của ông U vắng mặt. Các đương sự không thỏa thuận được việc tranh chấp.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

+ Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký tòa án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm chuẩn bị nghị án đều được tiến hành đúng trình tự thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Các đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ của người tham gia tố tụng đúng luật định.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án, Kiểm sát viên nhận định án sơ thẩm xử buộc bà D, ông U trả cho bà H 88.000.000 đồng tiền nợ hụi là không phù hợp với pháp luật vì hai bên thừa nhận hụi 10.000.000 đồng có 16 phần, bà H tham gia 01 phần đóng hụi sống cho bà D đến kỳ thứ 9 thì hụi bể, mỗi lần đóng 5.700.000 đồng đến 6.000.000 đồng được thể hiện qua giấy giao hụi và lời khai những người làm chứng cùng tham gia chung dây hụi. Do đó lời khai của bà H đòi bà D, ông U trả lại 50.000.000 đồng tiền hụi đã đóng là có cơ sở nên ghi nhận, còn bà D kháng cáo không có cơ sở nên đề nghị HĐXX không chấp nhận. Đối với ông Phạm Văn U có đơn kháng cáo nhưng ủy quyền cho ông Trần Văn Tr đại diện tham gia tố tụng. Ông Tr đã được Tòa án cấp phúc thẩm triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt không lý do xem như ông U từ bỏ việc kháng cáo nên đề nghị HĐXX đình chỉ xét xử phúc thẩm yêu cầu kháng cáo của ông U.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xem xét. Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà phúc thẩm. nghe các đương sự trình bày, tranh luận. ý kiến phát biểu nhận xét và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát. Xét thấy:

[1] Bà Nguyễn Ngọc D và ông Phạm Văn U thực hiện quyền kháng cáo bản án DSST của TAND huyện C, tỉnh Tiền Giang đúng theo quy định tại Điều 271, 272, 273 và khoản 2 Điều 276 của BLTTDS nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm. Ông Phạm Văn U ủy cho ông Trần Văn Tr làm đại diện tham gia tố tụng tại Tòa án. Việc ủy quyền được thực hiện theo quy định tại Điều 85, 86 của BLTTDS nhưng ông Tr được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt không lý do nên tiến hành xử vắng mặt theo khoản 3 Điều 296, khoản 1 Điều 289, khoản 5 Điều 308, Điều 312 của BLTTDS.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả tiền hụi do bị đơn làm chủ hụi khui ngày 26/01/2016. Tranh chấp này thuộc thẩm quyền và phạm vi giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 26 BLTTDS. Điều 166, 280, 471 của BLDS năm 2015 và Điều 18, 22 Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường.

[3] Nội dung tranh chấp và yêu cầu giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả 88.000.000 đồng tiền nợ hụi vì cho rằng bà H có tham gia dây hụi 10.000.000 đồng do bà D làm chủ hụi khui ngày 26/01/2016. Dây hụi có 16 phần, bà H tham gia 01 phần và đóng hụi sống được 9 lần bằng 90.000.000 đồng thì bà D ngưng không khui hụi tiếp nên bà đồng ý trừ tiền đầu thảo 2.000.000 đồng còn yêu cầu bà D và ông U trả cho bà 88.000.000 đồng.

Bị đơn bà D xác nhận bà H có tham gia dây hụi 10.000.000 đồng do bà làm chủ thảo khui ngày 26/01/2016. Dây hụi có 16 phần bà H tham gia 01 phần nhưng cho rằng việc hốt hụi giữa bà với bà H đã cấn trừ xong, hụi đã kết thúc không còn ai nợ ai.

Bị đơn ông U khẳng định ông không có nhận tiền hụi từ bà H giao việc bà H góp hụi cho bà D thì ông không biết. Ông có nghe bà D nói đã tính toán trừ nợ xong không còn thiếu tiền bà H nên không đồng ý cùng liên đới với bà D trả 88.000.000 đồng tiền hụi theo yêu cầu của bà H và đề nghị Tòa án hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời về phong tỏa quyền sử dụng đất của ông.

Án sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H. Buộc bà D và ông U cùng liên đới trả cho bà H 88.000.000 đồng tiền nợ hụi. Sau khi xử sơ thẩm thì bà D và ông U đều kháng cáo.

[4] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Ngọc D nhận thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm bà H nguyên đơn và bà D bị đơn trình bày lời khai thống nhất với nhau là: Bà H có tham gia 01 phần dây hụi 10.000.000 đồng do bà D làm chủ hụi khui ngày 26/01/2016 AL mỗi mùa vụ lúa khui 01 lần. có 16 người tham gia. Bà H đóng hụi sống mỗi kỳ 5.700.000 đồng đến 6.000.000 đồng. Đóng được 9 kỳ thì ngưng do nhiều người đã hốt không đóng hụi chết.

Bà H yêu cầu bà D, ông U trả lại số Tiền bà đã đóng hụi sống cho bà D là 50.000.000 đồng.

Bà D đồng ý trả lại tiền hụi bà H đã đóng nhưng chỉ trả 35.000.000 đồng và xin được trả dần mỗi tháng 5.000.000 đồng yêu cầu này không được bà H chấp nhận.

[5] Xét thấy việc tổ chức chơi hụi được hai bên thừa nhận chỉ dựa vào chổ quen biết không có lập sổ sách ghi chép rõ ràng về số tiền giao nhận giữa chủ hụi và hụi viên. Hai bên cũng xác nhận số lần bà H đóng hụi sống cho bà D là 09 kỳ. Mỗi kỳ từ 5.700.000 đồng đến 6.000.000 đồng như trong giấy hụi bà H nộp (Bút lục số 04) Lời xác nhận của hai bên tại phiên tòa phúc thẩm hoàn toàn phù hợp với lời khai của hai người làm chứng tên Trương Thanh Thúy là chị dâu của ông Phạm Văn U, Nguyễn Ngọc D và Nguyễn Thị Kim L là bà con bạn dì với ông U, bà D, bà H (Bút lục số 24, 25). Do đó bà H yêu cầu bà D, ông U trả lại tiền hụi cho bà 50.000.000 đồng là có căn cứ.

[6] Bà D kháng cáo đồng ý cùng ông U trả số tiền nợ hụi cho bà H là 35.000.000 đồng nhưng không nêu được lý do để chứng minh chỉ nợ 35.000.000 đồng và mâu thuẩn với lời khai nhận ở phần trên. Lý do bà D nêu ra là không có khả năng trả 50.000.000 đồng nhưng không được bà H đồng ý nên không phải đây là cơ sở loại trừ nghĩa vụ trả nợ của bà D cho bà H 50.000.000 đồng. Ngoài ra bà D khai tiền chơi hụi có được bà dùng vào việc chi tiêu trong cuộc sống gia đình và hiện tại bà với ông Phạm Văn U vẫn còn là vợ chồng nên Tòa sơ thẩm buộc ông U có nghĩa vụ liên đới với bà D trả nợ cho bà H là phù hợp với Điều 27, 30, 37 Luật Hôn nhân và Gia đình. Xét yêu cầu kháng cáo của bà D có cơ sở một phần như đã phân tích được chấp nhận. Sửa một phần quyết định án sơ thẩm. Buộc bà D, ông U trả cho bà H 50.000.000 đồng tiền nợ hụi.

[7] Đối với yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Văn U thì ông đã ủy quyền cho ông Trần Văn Tr tham gia tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm nhưng ông Tr được Tòa án tống đạt giấy triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm xem như ông U từ bỏ việc kháng cáo. Do đó Tòa án đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông U theo quy định tại khoản 1 Điều 289, khoản 5 Điều 308, Điều 312 của BLTTDS.

Các phần khác của án sơ thẩm xử có căn cứ đúng pháp luật vẫn giữ nguyên.

[8] Về án phí: Bà D, ông U phải chịu án phí DSST theo quy định tại khoản 2 Điều 148 của BLTTDS. Bà D không phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 Tiền tạm ứng án phí của ông Phạm Văn U được sung vào công quỹ theo quy định tại khoản 2 Điều 18 Nghị định 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa 14.

Xét nội dung phân tích và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát có một phần phù hợp với nhận định của Tòa án được ghi nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 270, 293, khoản 1 Điều 289, khoản 3 Điều 296, khoản 2 Điều 308, Điều 309, khoản 2 Điều 312, Điều 313 của BLTTDS;

Đình chỉ xét xử phúc thẩm yêu cầu kháng cáo của ông Đặng Văn U. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Ngọc D.

Sửa một phần Quyết định án sơ thẩm số 49/2022/DS-ST ngày 26/4/2022 của TAND huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Căn cứ vào Điều 4, 5 khoản 3 Điều 26 Điều 147, khoản 2 Điều 148 của BLTTDS.

Căn cứ vào Điều 166, 280, 288, 357, 471 của BLDS năm 2015 Điều 18 và Điều 22 Nghị định số 144/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.

Căn cứ vào Điều 27, 30, 37 Luật hôn nhân và gia đình khoản 2 Điều 18, khoản 2 Điều 26, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H. Buộc bà Nguyễn Ngọc D và ông Phạm Văn U có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Lê Thị H 50.000.000 đồng tiền nợ hụi.

Kể từ ngày bà H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà D và ông U chậm thi hành án thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi suất được quy định tại Điều 357 của BLDS năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Tiếp tục giữ nguyên quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 19/2021/QĐ-BPKCTT ngày 17/12/2021 của TAND huyện C, tỉnh Tiền Giang cho đến khi cơ quan có thẩm quyền thay đổi, hủy bỏ theo quy định của pháp luật 3. Về án phí:

Bà Nguyễn Ngọc D và ông Phạm Văn U cùng có nghĩa vụ liên đới phải chịu 2.500.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Tiền tạm ứng án phí do ông Phạm Văn U nộp theo biên lai thu số 0009750 ngày 12/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang được sung vào công quỹ nhà nước . Trả lại cho bà Nguyễn Ngọc D 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 009749 ngày 12/5/2022 của Chi cục Thị hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 218/2022/DS-PT

Số hiệu:218/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:26/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về