Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 18/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 18/2023/DS-ST NGÀY 27/04/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 27 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 29/2023/TLST-DS ngày 23 tháng 02 năm 2023 về việc tranh chấp về hợp đồng dân sự góp hụi theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2023/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 4 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Bùi Văn Ng, sinh ngày 01 tháng 6 năm 1997;

Địa chỉ: ấp KIB, xã ĐY, huyện AB, tỉnh Kiên Giang Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn anh Bùi Văn Ng: Chị Phạm Thanh T, sinh ngày 09 tháng 01 năm 1990, đại diện theo giấy uỷ quyền ngày 13 tháng 02 năm 2023 (có mặt);

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1981 (có mặt); Cùng địa chỉ: ấp XĐ2, xã ĐY, huyện AB, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 13/02/2023 của anh Bùi Văn Ng và trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phạm Thanh T là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn anh Bùi Văn Ng trình bày và yêu cầu như sau:

Anh Bùi Văn Ng có tham gia góp hụi do chị Nguyễn Thị H làm chủ dây hụi mở ngày 13/9/2020 âm lịch, loại hụi 5.000.000 đồng, gồm có 26 phần, mỗi tháng mở 01 lần vào ngày 13 hàng tháng, hụi có hoa hồng 2.500.000 đồng thì chi trả cho chủ hụi 2.500.000 đồng tiền hoa hồng, anh Bùi Văn Ng tham gia góp 01 phần, góp được 16 lần hụi sống với số tiền vốn góp vào là 56.000.000 đồng, thì chị Nguyễn Thị H tuyên bố bể hụi không góp nữa, nếu như anh Bùi Văn Ng được lĩnh hụi sống với số tiền là 80.000.000 đồng, trừ tiền hoa hồng 2.500.000 đồng, còn lại là 77.500.000 đồng, sau đó anh Bùi Văn Ng và chị Nguyễn Thị H có thoả thuận chị Nguyễn Thị H trả cho anh Bùi Văn Ng số tiền hụi là 56.000.000 đồng và chị Nguyễn Thị H có trả cho anh Bùi Văn Ng được 8.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị H trả không đúng theo thoả thuận. Nay chị yêu cầu chị Nguyễn Thị H phải trả cho anh Bùi Văn Ng số tiền góp hụi còn nợ là 69.500.000 đồng, trả từ nay đến hết năm 2023 đủ số tiền nói trên, ngoài ra chị không yêu cầu gì khác.

* Tại văn bản trình bày ý kiến và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị Nguyễn Thị H trình bày như sau:

Chị có tổ chức làm chủ hụi nhiều dây để tạo vốn xoay vòng cho anh chị em ở lân cận, quá trình làm chủ hụi các hụi viên không góp hụi, đến tháng 7/2021 âm lịch thì chị tuyên bố bể hụi không góp nữa, chị làm chủ không có đăng ký ở chính quyền địa phương, có lập sổ hụi gửi cho các hụi viên tham gia 01 danh sách phô tô để hụi viên theo dõi. Trong đó anh Bùi Văn Ng có tham gia góp dây hụi mở ngày 13/9/2020 âm lịch, loại hụi 5.000.000 đồng, gồm có 26 phần, mỗi tháng mở 01 lần vào ngày 13 hàng tháng, chủ hụi nhận hoa hồng 2.500.000 đồng, anh Bùi Văn Ng tham gia góp 01 phần, góp được 16 lần hụi sống thì chị tuyên bố bể hụi không góp nữa, theo như hụi vốn anh Bùi Văn Ng góp vào số tiền là 56.000.000 đồng, hụi được lĩnh là 80.000.000 đồng, trừ tiền hoa hồng 2.500.000 đồng, còn lại là 77.500.000 đồng. Sau khi bể hụi chị và anh Bùi Văn Ng có thoả thuận chị trả cho anh Bùi Văn Ng số tiền hụi là 56.500.000 đồng, mỗi mùa trả 10.000.000 đồng, 01 năm trả 20.000.000 đồng, chị trả được 8.000.000 đồng còn nợ lại anh Bùi Văn Ng 48.000.000 đồng nhưng thoả thuận không có làm văn bản giấy tờ và biên nhận gì. Nay chị đồng ý trả cho anh Bùi Văn Ng vốn góp vào là 56.000.000 đồng - 8.000.000 đồng, còn lại số tiền là 48.000.000 đồng, chị xin bớt tiền lãi hụi sống, hẹn trả mỗi năm 20.000.000 đồng trả cho đến khi hết số nợ nói trên, ngoài ra chị không yêu cầu gì khác.

* Tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án gồm: Căn cước công dân tên Bùi Văn Ng và Phạm Thanh T (Bản phô tô); Sổ hụi ngày 13 tháng 8 năm 2020 âm lịch, chủ hụi H (Bản phô tô); Giấy chứng minh nhân dân Nguyễn Thị H (Bản phô tô).

* Tại phiên tòa:

Chị Phạm Thanh T là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn anh Bùi Văn Ng xác định, anh Bùi Văn Ng tham gia góp hụi do chị Nguyễn Thị H làm chủ, số tiền vốn góp vào là 56.000.000 đồng, hụi sống được lĩnh là 77.500.000 đồng, sau đó anh Bùi Văn Ng và chị Nguyễn Thị H có thoả thuận chị Nguyễn Thị H trả cho anh Bùi Văn Ng số tiền hụi là 56.000.000 đồng và chị Nguyễn Thị H có trả cho anh Bùi Văn Ng được 8.000.000 đồng. Nay chị yêu cầu chị Nguyễn Thị H phải trả cho anh Bùi Văn Ng số tiền hụi vốn góp vào và tiền lãi chậm trả 10%/ năm (0.833%/ tháng) từ ngày 01 tháng 01 năm 2022 đến nay ngày 27 tháng 4 năm 2023, tính tròn 16 tháng là 54.397.400 đồng (Hụi vốn 48.000.000 đồng + lãi chậm trả 48.000.000 đồng x 0,833%/ tháng x 16 tháng), trả từ nay đến hết năm 2023 đủ số tiền nói trên, ngoài ra chị không yêu cầu gì khác.

Bị đơn chị Nguyễn Thị H xác định chị làm chủ hụi, sau khi bể hụi chị và anh Bùi Văn Ng có thoả thuận chị trả cho anh Bùi Văn Ng số tiền hụi là 56.500.000 đồng, mỗi mùa trả 10.000.000 đồng, 01 năm trả 20.000.000 đồng, chị trả được 8.000.000 đồng còn nợ lại anh Bùi Văn Ng 48.000.000 đồng. Nay chị đồng ý trả cho anh Bùi Văn Ng vốn góp vào và tiền lãi chậm trả 10%/ tháng từ ngày 01 tháng 01 năm 2022 đến nay tính tròn 16 tháng là 54.397.400 đồng (Hụi vốn 48.000.000 đồng + lãi chậm trả 48.000.000 đồng x 0,833%/ tháng x 16 tháng), chị xin bớt tiền lãi hụi sống, chị hẹn trả mỗi năm 20.000.000 đồng trả cho đến khi hết số nợ nói trên, ngoài ra chị không yêu cầu gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn anh Bùi Văn Ng khởi kiện yêu cầu bị đơn chị Nguyễn Thị H trả tiền hụi còn nợ. Bị đơn cư trú tại: ấp XĐ2, xã ĐY, huyện AB, tỉnh Kiên Giang nên xác định đây là tranh chấp về hợp đồng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét về hợp đồng góp hụi giữa anh Bùi Văn Ng và chị Nguyễn Thị H xác lập bằng lời nói, hụi có lãi và có hoa hồng, không thỏa thuận bằng văn bản, không công chứng, chứng thực sổ hụi, không ghi số giấy chứng minh nhân dân hoặc số căn cước công dân; ngày tháng năm sinh, mức hưởng hoa hồng của chủ họ trong họ hưởng hoa hồng, lãi suất trong họ có lãi; quyền và nghĩa vụ của chủ họ là thực hiện chưa đúng hình thức và nội dung theo quy định tại Điều 7 và Điều 8 của Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 02 năm 2019 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường, nay xảy ra tranh chấp, yêu cầu giải quyết, được xem xét giải quyết theo quy định tại Điều 25 của Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 02 năm 2019 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường.

Xét khởi kiện của anh Bùi Văn Ng và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn anh Bùi Văn Ng yêu cầu chị Nguyễn Thị H trả cho anh Bùi Văn Ng số tiền hụi được lĩnh là 69.500.000 đồng (77.500.000 đồng - 8.000.000 đồng), trả từ nay đến hết năm 2023 đủ số tiền nói trên; chị Nguyễn Thị H thừa nhận chị còn nợ tiền hụi anh Bùi Văn Ng theo hụi vốn góp vào là 56.000.000 đồng, theo hụi sống được lĩnh là 77.500.000 đồng, sau khi chị Nguyễn Thị H tuyên bố bể hụi, chị Nguyễn Thị H và anh Bùi Văn Ng thoả thuận trả cho anh Bùi Văn Ng hụi vốn góp vào là 56.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị H trả cho anh Bùi Văn Ng được 8.000.000 đồng, còn nợ lại số tiền là 48.000.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy rằng, qua trình bày và yêu cầu của đương sự cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, cụ thể sổ hụi mở ngày 13/9/2020 âm lịch xác định được, anh Bùi Văn Ng tham gia góp hụi do chị Nguyễn Thị H làm chủ là có thật và thuộc trường hợp một bên đương sự thừa nhận theo quy định tại điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay, chị Phạm Thanh T là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn anh Bùi Văn Ng và chị Nguyễn Thị H đều xác định, sau khi chị Nguyễn Thị H tuyên bố bể hụi, chị Nguyễn Thị H và anh Bùi Văn Ng thoả thuận trả cho anh Bùi Văn Ng hụi vốn góp vào là 56.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị H trả cho anh Bùi Văn Ng được 8.000.000 đồng, còn nợ lại số tiền là 48.000.000 đồng là sự tự nguyện định đoạt, không có sự ép buộc, không trái đạo đức xã hội và không trái quy định pháp luật, phù hợp theo quy định tại Điều 192 và Điều 194 Bộ luật dân sự. Do đó, anh Bùi Văn Ng và chị Phạm Thanh T là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn anh Bùi Văn Ng yêu cầu chị Nguyễn Thị H trả cho anh Bùi Văn Ng số tiền hụi được lĩnh là 69.500.000 đồng (77.500.000 đồng - 8.000.000 đồng) là không có cơ sở chấp nhận, vì trước đó anh Bùi Văn Ng đã định đoạt và thoả thuận với chị Nguyễn Thị H trả tiền hụi vốn góp vào.

Tại phiên tòa hôm nay, chị Phạm Thanh T là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn anh Bùi Văn Ng và chị Nguyễn Thị H thống nhất thỏa thuận chị Nguyễn Thị H trả cho anh Bùi Văn Ng số tiền hụi vốn góp vào và tiền lãi chậm trả 10%/ năm (0.833%/ tháng) từ ngày 01 tháng 01 năm 2022 đến nay ngày 27 tháng 4 năm 2023, tính tròn 16 tháng là 54.397.400 đồng (Hụi vốn 48.000.000 đồng + lãi chậm trả 48.000.000 đồng x 0,833%/ tháng x 16 tháng).

Từ những cơ sở phân tích trên, Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Văn Ng và ghi nhận thỏa thuận giữa chị Phạm Thanh T là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn anh Bùi Văn Ng và chị Nguyễn Thị H, buộc chị Nguyễn Thị H phải có nghĩa vụ trả cho anh Bùi Văn Ng số tiền hụi là 54.397.400 đồng (Hụi vốn 48.000.000 đồng + lãi chậm trả 48.000.000 đồng x 0,833%/ tháng x 16 tháng) theo quy định tại Điều 471 của Bộ luật dân sự, khoản 3, khoản 4 Điều 18 và khoản 1 Điều 23 của Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 02 năm 2019 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường.

[3] Về án phí, bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 và khoản 4 Điều 91, khoản 2 Điều 92, Điều 147, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ vào Điều 192, Điều 194, Điều 471 của Bộ luật dân sự; Điều 7, Điều 8, điểm c khoản 1 Điều 11, khoản 3, khoản 4, khoản 8 Điều 18, khoản 1 Điều 23 và khoản 1 Điều 25 của Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 02 năm 2019 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường; Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Buộc chị Nguyễn Thị H phải trả cho anh Bùi Văn Ng số tiền hụi là 54.397.400 đồng (Năm mươi bốn triệu ba trăm chín mươi bảy nghìn bốn trăm đồng).

Kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật, có đơn yêu cầu của người được thi hành án nếu người phải thi hành án không thi hành hoặc thi hành không đủ số tiền nêu trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án một khoản tiền lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 2.719.870 đồng (54.397.400 đồng x 5%).

Anh Bùi Văn Ng không phải chị án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả cho anh Bùi Văn Ng tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.862.500 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003923 ngày 23/02/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án 27/4/2023.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 18/2023/DS-ST

Số hiệu:18/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về