Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 17/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 17/2023/DS-ST NGÀY 27/04/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 27 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 28/2023/TLST-DS ngày 23 tháng 02 năm 2023 về việc tranh chấp về hợp đồng dân sự góp hụi theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2023/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 4 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Tuyết L, sinh ngày 01 tháng 7 năm 1979 (có mặt);

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1981 (có mặt); Cùng địa chỉ: ấp XĐ2, xã ĐY, huyện AB, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 13/02/2023 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị Tuyết L trình bày và yêu cầu như sau:

Chị có tham gia góp hụi do chị Nguyễn Thị H làm chủ 03 dây hụi như sau: Dây hụi mở ngày 16/3/2020 âm lịch, loại hụi 5.000.000 đồng, gồm có 25 phần, mỗi tháng mở 01 lần vào ngày 16 hàng tháng, hụi có hoa hồng 2.500.000 đồng thì chi trả cho chủ hụi 2.500.000 đồng tiền hoa hồng, chị tham gia góp 01 phần, chị góp được 21 lần hụi sống với số tiền vốn góp vào là 74.620.000 đồng, thì chị Nguyễn Thị H tuyên bố bể hụi không góp nữa, nếu như chị được lĩnh hụi sống với số tiền là 105.000.000 đồng, trừ tiền hoa hồng 2.500.000 đồng, còn lại là 102.500.000 đồng; Dây hụi mở ngày 22/4/2020 âm lịch, loại hụi 5.000.000 đồng, gồm có 26 phần, mỗi tháng mở 01 lần vào ngày 22 hàng tháng, hụi có hoa hồng 2.500.000 đồng thì chi trả cho chủ hụi 2.500.000 đồng tiền hoa hồng, chị tham gia góp 02 phần, chị góp được 19 lần hụi sống với số tiền vốn góp vào là 133.300.000 đồng, thì chị Nguyễn Thị H tuyên bố bể hụi không góp nữa, nếu như chị được lĩnh hụi sống với số tiền là 190.000.000 đồng (95.000.000 đồng x 02 phần), trừ tiền hoa hồng 5.000.000 đồng (2.500.000 đồng x 02 phần), còn lại là 185.000.000 đồng; Dây hụi mở ngày 20/3/2021 âm lịch, loại hụi 5.000.000 đồng, gồm có 26 phần, mỗi tháng mở 01 lần vào ngày 20 hàng tháng, hụi có hoa hồng 2.500.000 đồng thì chi trả cho chủ hụi 2.500.000 đồng tiền hoa hồng, chị tham gia góp 01 phần, chị góp được 08 lần hụi sống với số tiền vốn góp vào là 28.530.000 đồng, thì chị Nguyễn Thị H tuyên bố bể hụi không góp nữa, nếu như chị được lĩnh hụi sống với số tiền là 40.000.000 đồng, trừ tiền hoa hồng 2.500.000 đồng, còn lại là 37.500.000 đồng. Tổng số tiền 03 dây hụi nói trên, chị Nguyễn Thị H còn nợ chị số tiền là 325.000.000 đồng (102.500.000 đồng + 185.000.000 đồng + 37.500.000 đồng). Nay chị yêu cầu chị Nguyễn Thị H phải trả cho chị số tiền góp hụi còn nợ là 325.000.000 đồng (102.500.000 đồng + 185.000.000 đồng + 37.500.000 đồng), trả từ nay đến hết năm 2023 đủ số tiền nói trên, ngoài ra chị không yêu cầu gì khác. Đối với số tiền hụi nợ trước đó, vào ngày 29/8/2021 có cộng sổ theo dõi thì chị Nguyễn Thị H còn nợ chị 13.640.000 đồng chị không khởi kiện yêu cầu giải quyết.

* Tại văn bản trình bày ý kiến và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị Nguyễn Thị H trình bày như sau:

Chị có tổ chức làm chủ hụi nhiều dây để tạo vốn xoay vòng cho anh chị em ở lân cận, quá trình làm chủ hụi các hụi viên không góp hụi, đến tháng 7/2021 âm lịch thì chị tuyên bố bể hụi không góp nữa, chị làm chủ không có đăng ký ở chính quyền địa phương, có lập sổ hụi gửi cho các hụi viên tham gia 01 danh sách phô tô để hụi viên theo dõi. Trong đó chị Lê Thị Tuyết L có tham gia góp 03 dây hụi như sau: Dây hụi mở ngày 16/3/2020 âm lịch, loại hụi 5.000.000 đồng, gồm có 26 phần, mỗi tháng mở 01 lần vào ngày 17 hàng tháng, chủ hụi nhận hoa hồng 2.500.000 đồng, chị Lê Thị Tuyết L tham gia góp 01 phần, góp được 21 lần hụi sống thì chị tuyên bố bể hụi không góp nữa, theo như hụi vốn chị Lê Thị Tuyết L góp vào số tiền là 74.620.000 đồng (hụi kêu khoảng 1.500.000 đồng đến 1.700.000 đồng, bình quân góp vốn là 3.500.000 đồng), nếu như chị Lê Thị Tuyết L lĩnh hụi sống với số tiền là 97.500.000 đồng (3.500.000 đồng x 20 lần = 100.000.000 đồng, trừ tiền hoa hồng 2.500.000 đồng); Dây hụi mở ngày 22/4/2020 âm lịch, loại hụi 5.000.000 đồng, gồm có 26 phần, mỗi tháng mở 01 lần vào ngày 22 hàng tháng, chủ hụi nhận hoa hồng 2.500.000 đồng, chị Lê Thị Tuyết L tham gia góp 02 phần, góp được 19 lần hụi sống thì chị tuyên bố bể hụi không góp nữa, theo như hụi vốn chị Lê Thị Tuyết L góp vào số tiền là 133.300.000 đồng (hụi kêu khoảng 1.510.000 đồng đến 1.800.000 đồng, bình quân góp vốn là 3.350.000 đồng x 19 lần x 02 phần), trừ tiền hoa hồng 5.000.000 đồng (2.500.000 đồng x 02 phần), còn lại là 185.000.000 đồng; Dây hụi mở ngày 20/3/2021 âm lịch, loại hụi 5.000.000 đồng, gồm có 28 phần, mỗi tháng mở 01 lần vào ngày 20 hàng tháng, chủ hụi nhận hoa hồng 2.500.000 đồng, chị Lê Thị Tuyết L tham gia góp 01 phần, góp được 08 lần hụi sống thì chị tuyên bố bể hụi không góp nữa, theo như hụi vốn chị Lê Thị Tuyết L góp vào số tiền là 28.530.000 đồng, nếu như chị Lê Thị Tuyết L được lĩnh hụi sống với số tiền là 40.000.000 đồng, trừ tiền hoa hồng 2.500.000 đồng, còn lại là 37.500.000 đồng. Tổng số tiền chị nợ chị Lê Thị Tuyết L theo như hụi vốn góp vào là 236.450.000 đồng (70.000.000 đồng + 127.300.000 đồng + 28.000.000 đồng), theo lĩnh hụi sống số tiền là 325.000.000 đồng (97.500.000 đồng + 185.000.000 đồng + 39.000.000 đồng). Nay chị đồng ý trả cho chị Lê Thị Tuyết L vốn góp vào là 236.450.000 đồng, chị xin bớt tiền lãi hụi sống, hẹn trả mỗi năm 20.000.000 đồng trả cho đến khi hết số nợ nói trên, ngoài ra chị không yêu cầu gì khác.

* Tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án gồm: Căn cước công dân tên Lê Thị Tuyết L (Bản phô tô); 03 sổ hụi các ngày 16 tháng 3 năm 2020 âm lịch, ngày 22 tháng 4 năm 2020 âm lịch và ngày 20 tháng 3 năm 2021 âm lịch, chủ hụi Nguyễn Thị H (Bản phô tô); Giấy chứng minh nhân dân Nguyễn Thị H (Bản phô tô).

* Tại phiên tòa:

Nguyên đơn chị Lê Thị Tuyết L xác định chị tham gia góp hụi do chị Nguyễn Thị H làm chủ, chị góp 3 dây hụi với số tiền vốn góp vào là 236.450.000 đồng, hụi sống được lĩnh là 325.000.000 đồng. Nay chị yêu cầu chị Nguyễn Thị H phải trả cho chị số tiền hụi sống được lĩnh là 325.000.000 đồng (102.500.000 đồng + 185.000.000 đồng + 37.500.000 đồng), trả từ nay đến hết năm 2023 đủ số tiền nói trên, ngoài ra chị không yêu cầu gì khác. Đối với số tiền hụi nợ trước đó, vào ngày 29/8/2021 có cộng sổ theo dõi thì chị Nguyễn Thị H còn nợ chị 13.640.000 đồng chị không khởi kiện yêu cầu giải quyết.

Bị đơn chị Nguyễn Thị H xác định chị làm chủ hụi, sau khi tuyên bố bể hụi chị còn nợ chị Lê Thị Tuyết L theo hụi vốn góp vào là 236.450.000 đồng, theo hụi sống được lĩnh là 325.000.000 đồng. Nay chị đồng ý trả cho chị Lê Thị Tuyết L hụi vốn góp vào là 236.450.000 đồng, chị xin bớt tiền lãi hụi sống chênh lệch là 88.550.000 đồng (Hụi sống được lĩnh là 325.000.000 đồng - hụi vốn góp vào là 236.450.000 đồng), chị hẹn trả mỗi năm 20.000.000 đồng trả cho đến khi hết số nợ nói trên, ngoài ra chị không yêu cầu gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Lê Thị Tuyết L khởi kiện yêu cầu bị đơn chị Nguyễn Thị H trả tiền hụi còn nợ. Nguyên đơn và bị đơn đều cư trú tại: ấp XĐ2, xã ĐY, huyện AB, tỉnh Kiên Giang nên xác định đây là tranh chấp về hợp đồng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét về hợp đồng góp hụi giữa chị Lê Thị Tuyết L và chị Nguyễn Thị H xác lập bằng lời nói, hụi có lãi và có hoa hồng, không thỏa thuận bằng văn bản, không công chứng, chứng thực sổ hụi, không ghi số giấy chứng minh nhân dân hoặc số căn cước công dân; ngày tháng năm sinh, mức hưởng hoa hồng của chủ họ trong họ hưởng hoa hồng, lãi suất trong họ có lãi; quyền và nghĩa vụ của chủ họ là thực hiện chưa đúng hình thức và nội dung theo quy định tại Điều 7 và Điều 8 của Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 02 năm 2019 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường, nay xảy ra tranh chấp, yêu cầu giải quyết, được xem xét giải quyết theo quy định tại Điều 25 của Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 02 năm 2019 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường.

Xét khởi kiện của chị Lê Thị Tuyết L yêu cầu chị Nguyễn Thị H trả cho chị số tiền hụi được lĩnh là 325.000.000 đồng, trả từ nay đến hết năm 2023 đủ số tiền nói trên; ý kiến trình bày của chị Nguyễn Thị H thừa nhận chị còn nợ tiền hụi chị Lê Thị Tuyết L theo hụi vốn góp vào là 236.450.000 đồng, theo hụi sống được lĩnh là 325.000.000 đồng, chị đồng ý trả cho chị Lê Thị Tuyết L hụi vốn góp vào là 236.450.000 đồng, chị xin bớt tiền lãi hụi sống chênh lệch là 88.550.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy rằng, qua trình bày và yêu cầu của đương sự cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, cụ thể 03 sổ hụi mở các ngày 16/3/2020 âm lịch, ngày 22/4/2020 âm lịch và ngày 20/3/2021 âm lịch xác định được, chị Lê Thị Tuyết L tham gia góp hụi do chị Nguyễn Thị H làm chủ là có thật và thuộc trường hợp một bên đương sự thừa nhận theo quy định tại điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xét trình bày của yêu cầu chị Nguyễn Thị H, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay, chị Nguyễn Thị H đồng ý trả cho chị Lê Thị Tuyết L hụi vốn góp vào là 236.450.000 đồng, chị Nguyễn Thị H xin bớt tiền lãi hụi sống chênh lệch là 88.550.000 đồng nhưng chị Lê Thị Tuyết L không đồng ý, yêu cầu chị Nguyễn Thị H trả cho chị số tiền hụi được lĩnh là 325.000.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy rằng, chủ hụi là người tổ chức, quản lý dây hụi, thu và giao các phần hụi đó cho thành viên được lĩnh hụi trong mỗi kỳ mở hụi cho tới khi kết thúc dây hụi, không phải là người nộp phần lãi nên việc chị Nguyễn Thị H xin bớt tiền lãi hụi sống chênh lệch 88.550.000 đồng là không có cơ sở chấp nhận. Đồng thời, chị Lê Thị Tuyết L không yêu cầu trả lãi chậm trả nên không xem xét. Ngoài 03 dây hụi nói trên, vào ngày 29/8/2021 chị Lê Thị Tuyết L và chị Nguyễn Thị H cộng sổ theo dõi thì chị Nguyễn Thị H còn nợ chị Lê Thị Tuyết L 13.640.000 đồng nhưng chị Lê Thị Tuyết L không khởi kiện, nếu sau này có khởi kiện yêu cầu giải quyết thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.

Từ những cơ sở phân tích trên, Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Tuyết L, buộc chị Nguyễn Thị H phải có nghĩa vụ trả cho chị Lê Thị Tuyết L số tiền hụi được lĩnh là 325.000.000 đồng theo quy định tại Điều 471 của Bộ luật dân sự, khoản 3, khoản 4 Điều 18 và khoản 1 Điều 23 của Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 02 năm 2019 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường.

[3] Về án phí, bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 và khoản 4 Điều 91, khoản 2 Điều 92, Điều 147, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 471 của Bộ luật dân sự; Điều 7, Điều 8, điểm c khoản 1 Điều 11, khoản 3, khoản 4, khoản 8 Điều 18, khoản 1 Điều 23 và khoản 1 Điều 25 của Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 02 năm 2019 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Buộc chị Nguyễn Thị H phải trả cho chị Lê Thị Tuyết L số tiền hụi được lĩnh là 325.000.000 đồng (Ba trăm hai mươi lăm triệu đồng).

Kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật, có đơn yêu cầu của người được thi hành án nếu người phải thi hành án không thi hành hoặc thi hành không đủ số tiền nêu trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án một khoản tiền lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 16.250.000 đồng (325.000.000 đồng x 5%).

Chị Lê Thị Tuyết L không phải chị án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả cho chị Lê Thị Tuyết L tiền tạm ứng án phí đã nộp là 8.125.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003922 ngày 23/02/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án 27/4/2023.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cư ng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 17/2023/DS-ST

Số hiệu:17/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về