TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 114/2024/DS-PT NGÀY 01/02/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI
Ngày 01 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 492/2023/TLPT-DS ngày 20 tháng 11 năm 2023 về tranh chấp hợp đồng góp hụi.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 78/2023/DS-ST ngày 31 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 4557/2023/QĐ – PT ngày 25 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Đặng Thị Mỹ N, sinh năm 1967 (có mặt).
Địa chỉ: số nhà G, ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre.
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị O, sinh năm 1965 (có mặt).
Địa chỉ: số nhà A, ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đỗ Văn H, sinh năm 1964 (có yêu cầu xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: số A, ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre.
4. Người kháng cáo: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Văn H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng nguyên đơn bà Đặng Thị Mỹ N trình bày:
Do quen biết và là hàng xóm của nhau nên bà có tham gia các dây hụi do bà Nguyễn Thị O làm chủ. Cụ thể:
Dây 1: hụi 2.000.000 đồng, khui ngày 25/01/2022, có 24 phần, bà tham gia 02 phần, mỗi tháng hụi bỏ 300.000 đồng, hụi khui được đến kỳ thứ 16, bà đã đóng 54.400.000 đồng.
Dây 2: hụi 2.000.000 đồng, khui ngày 18/8/2022, có 27 phần, bà tham gia 02 phần, mỗi tháng hụi bỏ 300.000 đồng, hụi khui được đến kỳ thứ 09, bà đã đóng 30.600.000 đồng.
Dây 3: hụi 1.000.000 đồng, khui ngày 15/01/2023, có 26 phần, bà tham gia 02 phần, hụi khui được đến kỳ thứ 04, mỗi tháng hụi bỏ 200.000 đồng, bà đã đóng 6.400.000 đồng.
Tại đơn khởi kiện, bà yêu cầu bà O cùng chồng là ông Đỗ Văn H có trách nhiệm liên đới trả cho bà 108.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. Quá trình giải quyết vụ án, bà xác định lại bà O còn nợ bà tiền hụi là 91.400.000 đồng; yêu cầu bà O và ông H có trách nhiệm liên đới trả cho bà 94.055.170 đồng bao gồm 91.400.000 đồng tiền hụi và 2.655.170 đồng tiền lãi [tính từ ngày bà O tuyên bố bể hụi (ngày 15/5/2023) đến ngày tòa án xét xử sơ thẩm (ngày 31/8/2023) với lãi suất 0,83%/tháng].
Quá trình tố tụng, bị đơn bà Nguyễn Thị O trình bày:
Bà làm chủ hụi hơn 20 năm; bà N có tham gia các dây hụi do bà làm chủ và hiện bà còn nợ bà N tổng số tiền hụi gốc là 91.400.000 đồng đồng như bà N trình bày. Các dây hụi bà N tham gia vẫn chưa mãn nhưng từ ngày 15/5/2023 các hụi viên không đóng hụi cho bà nên bà ngưng hụi để trả dần tiền cho các hụi viên. Bà đồng ý trả cho bà N số tiền này nhưng xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi trả xong nợ và không trả lãi do hoàn cảnh kinh tế của bà đang gặp khó khăn, thiếu nợ nhiều hụi viên.
Việc bà làm chủ hụi chồng bà là ông Đỗ Văn H không biết, sau khi khui hụi được 4, 5 kỳ thì ông H biết và không đồng ý cho bà chơi hụi; bà là người trực tiếp góp hụi và giao hụi. Bà và ông H sống chung từ năm 1984 cho đến nay, ở chung nhà, chung hộ khẩu, ông H làm vườn, ông bà không có làm kinh tế riêng, mọi chi tiêu sinh hoạt trong gia đình đều do bà lo. Bà làm hụi để dành tiền cho sau này, tiền lời bà sử dụng để chơi hụi khác, bà hốt hụi để lo ăn uống, chi tiêu sinh hoạt trong gia đình.
bày:
Quá trình tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Văn H trình Ông không tham gia vào việc tổ chức hụi giữa vợ ông là bà O với các hụi viên.
Việc khui hụi, góp hụi ở đâu ông không biết; ông thường nhắc bà O không nên chơi hụi vì dễ dẫn đến xích mích, mâu thuẫn với hàng xóm. Thường ngày ông chăm sóc vườn, thu hoa lợi để nuôi sống bản thân và gia đình. Ông không liên quan đến tiền hụi của bà O.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 78/2023/DS–ST ngày 31 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã quyết định:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị Mỹ N.
Buộc bà Nguyễn Thị O và ông Đỗ Văn H chịu trách nhiệm liên đới trả cho bà Đặng Thị Mỹ N số tiền nợ hụi là 94.055.170 đồng, trong nợ gốc là 91.400.000 đồng và tiền lãi là 2.655.170 đồng.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, lãi chậm thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 15/9/2023, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Văn H kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án, ông không đồng ý cùng bà O liên đới trả nợ bởi vì ông không cho bà O làm chủ hụi, bà tự ý làm nên vợ chồng ông ăn riêng, tiêu xài riêng, ông không sử dụng tiền của bà O có được từ việc làm chủ hụi.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Văn H giữ nguyên kháng cáo. Nguyên đơn không đồng ý với kháng cáo của ông H, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của ông Đỗ Văn H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên; xét kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Văn H, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Văn H có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, căn cứ theo Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt ông H.
[2] Bà N và bà O thống nhất giữa hai bên có xác lập giao dịch hụi, bà N là hụi viên tham gia hụi do bà O làm chủ hụi. Bà O đã ngừng các dây hụi vào ngày 15/5/2023 và hiện bà còn nợ bà N số tiền hụi là 91.400.000 đồng đây là các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.
Ông H kháng cáo không đồng ý có nghĩa vụ liên đới cùng bà O trả nợ, do đó cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại nội dung này, các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị nên không xem xét.
[3] Ông H trình bày ông không tham gia các giao dịch về hụi giữa vợ ông là bà O với các hụi viên, khi biết việc bà O làm chủ hụi ông đã ngăn cản, do bà vẫn tự ý làm nên vợ chồng ông ăn riêng, ông không sử dụng tiền của bà O có được từ việc làm chủ hụi. Bà O cũng cho rằng việc bà làm chủ hụi ông H không biết, không tham gia.
Tuy nhiên, bà O thừa nhận bà làm chủ hụi hơn 20 năm, thu nhập từ việc làm chủ hụi bà dùng để lo kinh tế gia đình, vợ chồng bà không có làm kinh tế riêng, bà là người lo chi phí sinh hoạt trong gia đình vì vậy có cơ sơ xác định mục đích bà O làm chủ hụi là nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu và phát triển kinh tế trong gia đình.
Bà O và ông H đều thống nhất ông bà là vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn, ông bà chung sống từ năm 1984 đến năm 1985 thì có 01 người con trai, hiện ông bà vẫn sống cùng nhà, cùng chung hộ khẩu, nên có căn cứ xác định hôn nhân của ông bà là hôn nhân thực tế được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp. Ông H không cung cấp được tài liệu, chứng cứ thể hiện giữa ông và bà O có thỏa thuận về phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân, nghĩa vụ phát sinh từ tài sản riêng của mỗi người. Do đó, căn cứ theo quy định khoản 2 Điều 27, khoản 2 Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông H có nghĩa vụ liên đới cùng bà O trả số tiền nợ hụi cho bà N là phù hợp. Kháng cáo của ông H không có chứng cứ chứng minh nên không được chấp nhận.
Tuy nhiên, bản án sơ thẩm có thiếu sót khi không xử lý tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bà N đã nộp nên cần bổ sung quyết định hoàn trả cho bà N số tiền này do yêu cầu khởi kiện của bà được chấp nhận.
[4] Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Kháng cáo không được chấp nhận nên ông H phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Văn H.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 78/2023/DS–ST ngày 31 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
Áp dụng Điều 471 Bộ luật Dân sự; các điều 21, 22 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; khoản 2 Điều 27, khoản 2 Điều 37 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị Mỹ N.
Buộc bà Nguyễn Thị O và ông Đỗ Văn H có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Đặng Thị Mỹ N số tiền nợ hụi là 94.055.170 đồng (chín mươi bốn triệu không trăm năm mươi lăm nghìn một trăm bảy mươi đồng), trong đó nợ gốc là 91.400.000 đồng (chín mươi mốt triệu bốn trăm nghìn đồng) và tiền lãi là 2.655.170 đồng (hai triệu sáu trăm năm mươi lăm nghìn môt trăm bảy mươi đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: buộc bà Nguyễn Thị O và ông Đỗ Văn H phải liên đới chịu 4.702.758 đồng (bốn triệu bảy trăm lẻ hai nghìn bảy trăm năm mươi tám đồng).
Hoàn trả cho bà Đặng Thị Mỹ N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.700.000 đồng (hai triệu bảy trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004005 ngày 26/7/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: ông Đỗ Văn H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông H đã nộp tại biên lai thu số 0000699 ngày 15/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 114/2024/DS-PT
Số hiệu: | 114/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 01/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về