Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 102/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 102/2022/DS-ST NGÀY 31/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Trong ngày 31 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 335/2021/TLST- DS ngày 14 tháng 12 năm 2021 về “Tranh chấp hợp đồng góp hụi”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2022/QĐXXST-DS ngày 09 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lâm Thanh N, sinh năm 1987; cư trú tại: Ấp B, xã N, huyện C, tỉnh Tây Ninh (có mặt).

- Bị đơn: Chị Lê Thị T, sinh năm 1981; cư trú tại: Ấp N, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh (có đơn xin vắng mặt).

- Người làm chứng:

1. Chị Mai Thị Kim P, sinh năm 1972; cư trú tại: Ấp N, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).

2. Chị Lê Thị C, sinh năm 1982; cư trú tại: Ấp N, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).

3. Bà Mai Thị T2, sinh năm 1962; cư trú tại: Ấp N, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).

4. Chị Lê Thị B, sinh năm 1967; cư trú tại: Ấp N, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 06 tháng 12 năm 2021 và lời khai trong suốt quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn – anh Lâm Thanh N trình bày:

Anh có tham gia góp hụi một số phần hụi do chị Lê Thị T làm chủ hụi cụ thể như sau:

Dây 1 hụi 2.000.000 đồng, khui ngày 15/5/2019 âm lịch, gồm 26 phần, mỗi tháng khui một lần, anh tham gia 01 phần lấy tên “N”. Dây hụi này anh đã hốt hụi vào kỳ hụi thứ 19 được số tiền 42.800.000 đồng, còn lại 03 kỳ hụi chết anh chưa đóng với số tiền 6.000.000 đồng, lý do chị T bị bể hụi.

Dây 2 hụi 2.000.000 đồng khui ngày 20/8/2019 âm lịch, gồm 26 phần. mỗi tháng khui một lần, anh tham gia 01 phần lấy tên “N”. Dây hụi này anh đã đóng hụi đến kỳ hụi thứ 19 được số tiền vốn góp là 24.300.000 đồng và số tiền lãi được hưởng là 13.700.000 đồng. Dây hụi này anh chưa hốt do chị T bị bể hụi.

Nay anh khởi kiện yêu cầu chị T trả cho anh số tiền hụi gốc anh đã góp và tiền lãi anh được hưởng là 38.000.000 đồng. Anh đồng ý khấu trừ số tiền hụi chết anh chưa đóng cho chị T là 6.000.000 đồng; buộc chị T trả cho anh số tiền 32.000.000 đồng.

Trong biên bản lấy lời khai ngày 04 tháng 3 năm 2022, bị đơn chị Lê Thị T trình bày Chị T thống nhất với lời khai của anh N về các phần hụi và dây hụi anh N tham gia góp hụi do chị làm chủ hụi. Đối với dây hụi 1 anh N đã hốt hụi vào kỳ hụi thứ 16, chị không nhớ cụ thể ngày tháng đăng hụi cho anh N, dây hụi này anh N hốt được số tiền 30.000.000 đồng; tại thời điểm đăng hụi cho anh N chị không lập giấy tờ đăng hụi; hai bên chỉ thống nhất với nhau bằng lời nói sau đó chị giao tiền cho anh N. Lý do không lập giấy tờ đăng hụi do chị và anh N có mối quan hệ quen biết lâu năm, tin tưởng. Đối với dây hụi 2, anh N chưa hốt, tuy nhiên chị và anh N đã cấn trừ qua lại, chị giao thêm cho anh N 8.000.000 đồng, tổng số tiền chị giao cho anh N là 38.000.000 đồng. Chị và anh N không còn liên quan với nhau tiền hụi sống, hụi chết, không ai nợ ai.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 25 tháng 5 năm 2022, bị đơn chị Lê Thị T trình bày:

Đối với dây hụi 1 (hụi khui ngày 15/5/2019) anh N hốt hụi vào kỳ hụi thứ 17 được số tiền 40.000.000 đồng; còn lại 08 kỳ hụi chết anh N chưa đóng. Đối với dây hụi 2 anh N chỉ góp được hơn 15 lần, chị không nhớ chính xác anh N góp được bao nhiêu kỳ hụi với số tiền cụ thể là bao nhiêu. Đến ngày 20/02/2021 âm lịch là chị tuyên bố bể hụi, ngưng không gôm hụi và đăng hụi cho các hụi viên nữa.

Nay anh N khởi kiện yêu cầu chị trả số tiền hụi đã góp và lãi 32.000.000 đồng, chị không đồng ý.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa yêu cầu chị T cung cấp sổ sách theo dõi hụi nhưng chị T không cung cấp.

Người làm chứng chị Mai Thị Kim P trình bày: Chị và anh Lâm Thanh N có mối quan hệ quen biết, chị và anh N đều là hụi viên tham gia góp hụi chung trong 02 dây hụi do chị T làm chủ hụi cụ thể: Dây hụi 2.000.000 đồng, khui ngày 15/5/2019 âm lịch, gồm 26 phần, chị tham gia 01 phần lấy tên “8 D” và dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 20/8/2019 âm lịch, gồm 26 phần. mỗi tháng khui một lần chị tham gia một phần lấy tên là “8 D”. Trong hai phần hụi chị tham gia chị đã hốt. Anh N tham gia mỗi dây một phần lấy tên “N”. Chị có tham gia góp hụi thay cho anh N trong cả hai dây hụi cho đến ngày anh N hốt dây hụi ngày 15/5/2019 âm lịch. Khi hốt hụi anh N là người trực tiếp kêu hụi và hốt hụi nên chị không biết được anh N hốt hụi được bao nhiêu tiền và hốt vào kỳ hụi thứ mấy. Đối với dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 20/8/2019, chị Thống nhất với anh N về số tiền kêu hụi và số tiền vốn hụi viên phải góp và số tiền lãi hụi viên được hưởng. Tổng số tiền vốn hụi viên phải đóng là 24.300.000 đồng, tiền lãi hụi viên được hưởng của 19 kỳ hụi là 13.700.000 đồng.

Chị T tuyên bố bể hụi vào kỳ hụi thứ 20 (ngày 20/02/2021). Chị T bỏ nhà đi và ngưng không gôm hụi của cả hai dây hụi khui ngày 15/5/2019 và dây hụi khui ngày 20/8/2019.

Người làm chứng bà Mai Thị T2 trình bày:

Bà và anh Lâm Thanh N có mối quan hệ quen biết, bà và anh N đều là hụi viên tham gia góp hụi chung dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 20/8/2019 âm lịch do chị T làm chủ hụi, bà tham gia hụi với tên là “4 l”, anh N tham gia hụi với tên là “N”. Bà đã góp được 19 kỳ hụi, đến kỳ hụi thứ 20 (ngày 20/2/2021 âm lịch) thì chị T tuyên bố bể hụi. Số tiền vốn góp và số tiễn lãi bà được hưởng cụ thể là bao nhiêu bà không nhớ do bà không có sổ sách theo dõi.

Người làm chứng chị Lê Thị B trình bày:

Chị và anh Lâm Thanh N có mối quan hệ quen biết, chị và anh N đều là hụi viên tham gia góp hụi chung dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 20/8/2019 âm lịch và dây hụi do chị T làm chủ hụi 2.000.000 đồng khui ngày 15/5/2019, chị Tham gia hụi với tên là “Chị B”, anh N tham gia hụi với tên “N”. Đối với dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 15/5/2019, anh N đã hốt hụi nhưng hốt vào kỳ hụi thứ mấy và được số tiền bao nhiêu thì chị không biết. Đối với dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 20/8/2019 âm lịch cả chị và anh N đều chưa hốt phần hụi nào trong dây hụi này. Chị góp được đến kỳ hụi thứ 19, đến khoảng tháng 2/2020 thì chị T tuyên bố bể hụi, chị không nhớ được là chị đã góp được bao nhiêu tiền vốn góp và số tiền lãi chị được hưởng là bao nhiêu.

Người làm chứng chị Lê Thị C trình bày: Chị và anh Lâm Thanh N, chị Lê Thị T có mối quan hệ quen biết. Chị và anh N đều là hụi viên tham gia góp hụi chung dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 20/8/2019 và dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 15/5/2019 âm lịch do chị T làm chủ hụi, trong danh sách hụi chị tham gia với tên “C” anh N tham gia với tên “N”. Đối với dây hụi dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 15/5/2019 âm lịch, chị đã hốt hụi và đóng hụi chết đến khi chị T bể hụi tháng 2/2021 còn lại 03 kỳ hụi chết chưa đóng. Đối với dây hụi dây hụi 2.000.000 đồng khui ngày 20/8/2019 âm lịch, chị đóng được 19 kỳ hụi sống, đến tháng 2/2021 chị T tuyên bố bể hụi, ngoài ra chị còn tham gia góp các dây hụi khác do chị T làm chủ hụi. Chị và chị T đã chốt hụi và cấn trừ qua lại tiền hụi chết, hụi sống của chị và của hụi viên khác. Hiện nay chị T còn nợ chị 22.000.000 đồng tiền hụi. Chị chưa khởi kiện chị T đến Tòa án buộc chị T trả số tiền này.

Tại phiên tòa anh Lâm Thanh N trình bày:

Anh N rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu buộc chị T trả cho anh số tiền lãi hụi là 13.700.000 đồng. Giữ nguyên yêu cầu khởi kiện buộc chị T trả cho anh số tiền hụi gốc mà anh đã góp là 24.300.000 đồng, đồng ý khấu trừ số tiền hụi chết anh chưa đóng cho chị T 6.000.000 vào số tiền hụi gốc anh đã góp.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ việc, Thư ký, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan; đương sự chấp hành đúng các quy định của pháp luật, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

Về nội dung: Căn cứ Điều 471 của Bộ luật Dân sự 2015; nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, bêu, phường; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử.

+ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh N về việc yêu cầu buộc chị T trả tiền nợ hụi gốc 18.300.000 đồng.

+ Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của anh N về việc yêu cầu buộc chị T trả tiền lãi hụi 13.700.000 đồng.

Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền và quan hệ tranh chấp: Anh Lâm Thanh N nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị Lê Thị T có địa chỉ cư trú tại Ấp N, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh trả số tiền hụi là 32.000.000 đồng, đây là tranh chấp về hợp đồng góp hụi, theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Chị T vắng có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt chị T là phù hợp.

[3] Về điều luật áp dụng: Hai dây hụi anh N tham gia góp hụi do chị T làm chủ hụi khui lần đầu vào ngày 15/5/2019 âm lịch nhằm ngày 17/6/2019 dương lịch và ngày 20/8/2019 âm lịch nhằm ngày 18/9/2019 dương lịch nên áp dụng Nghị định số 19/2019/NĐ-CP, ngày 19 tháng 02 năm 2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường và Bộ luật Dân sự năm 2015 để giải quyết vụ án.

[4] Về nội dung vụ án:

Anh N khởi kiện yêu cầu chị T trả cho anh số tiền nợ hụi gốc anh đã góp và tiền lãi anh được hưởng là 38.000.000 đồng (trong đó tiền nợ hụi gốc là 24.300.000 đồng và lãi được hưởng là 13.700.000 đồng). Anh đồng ý khấu trừ số tiền hụi chết anh chưa đóng cho chị T là 6.000.000 đồng; buộc chị T trả cho anh số tiền 32.000.000 đồng.

Chị T không đồng ý trả cho anh N số tiền 32.000.000 đồng theo như yêu cầu khởi kiện lý do chị và anh N đã gút tiền hụi, cấn trừ qua lại giữa hụi sống và hụi chết, hiện nay không ai nợ ai.

[4.1] Chị T trình bày anh N đã hốt dây hụi 2.000.000 đồng, khui ngày 15/5/2019 âm lịch vào kỳ hụi thứ 16 được số tiền 30.000.000 đồng; có lời khai khác, chị T khai anh N hốt hụi vào kỳ hụi thứ 17 được số tiền 40.000.000 đồng, anh N còn nợ lại 08 kỳ hụi chết chưa đóng. Lời khai của chị T không thống nhất. Chị T không cung cấp được giấy đăng hụi, sổ sách theo dõi hụi nên không có căn cứ chấp nhận lời trình bày của chị T về việc đăng hụi và đóng hụi chết của anh N. Lời thừa nhận của anh N cho rằng anh N còn thiếu chị T 3 kỳ hụi chết với số tiền 6.000.000 đồng là chứng cứ không phải chứng minh. Có căn cứ khấu trừ số tiền hụi chết anh N chưa đóng vào số tiền hụi gốc anh N đã góp.

Đối với dây hụi 2.000.000 đồng, khui ngày 20/8/2019 âm lịch, chị T và anh N thống nhất về thời gian mở hụi, số phần hụi anh N tham gia góp. Chị T trình bày anh N góp được 15 kỳ hụi, chị T không nhớ chính xác, không cung cấp được sổ sách theo dõi hụi. Anh N khai anh N góp được 19 kỳ hụi cho đến ngày chị T bể hụi thì anh mới ngưng. Chị T khai chị bể hụi ngày 20/02/2021 âm lịch phù hợp với lời khai của một số hụi viên tham gia hụi xác định đã đóng được 19 kỳ hụi và ngày chị T bể hụi là vào tháng 2/2020 âm lịch. Chị T không cung cấp được chứng cứ chứng minh về việc gút hụi và việc cấn trừ qua lại giữa hụi sống, hụi chết với anh N. Lời khai của anh N phù hợp với lời khai của nhân chứng là các hụi viên có tham gia chung các dây hụi, có căn cứ chấp nhận lời trình bày của anh N về số tiền hụi gốc anh N đã góp là 24.300.000 đồng; khấu trừ số tiền hụi chết anh N phải trả cho chị T 6.000.000 đồng, chị T phải có nghĩa vụ trả cho anh N số tiền hụi gốc là 18.300.000 đồng.

[4.2] Đối với yêu cầu tính lãi:

Anh N yêu cầu chị T số tiền lãi 13.700.000 đồng thấy rằng: Sau khi chị T bể hụi chị T và anh N không có lập văn bản, giấy tờ gút hụi, không thỏa thuận mức lãi suất phải trả, thời gian trả.

Tại phiên tòa anh N rút lại một phần yêu cầu khởi kiện; không yêu cầu chị T trả cho anh số tiền lãi trên tiền hụi gốc anh đã góp là 13.700.000 đồng. Tòa án đình chỉ yêu cầu khởi kiện của anh N đối với yêu cầu này.

Xét đề nghị Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên chấp nhận.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 24, Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu khởi kiện của anh N được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 147, Điều 244, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 471 Bộ luật Dân sự; Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về Họ, Hụi, Biêu, Phường; Điều 24; 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của U ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Lâm Thanh N về “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” đối với chị Lê Thị T.

Buộc chị Lê Thị T có trách nhiệm trả cho anh Lâm Thanh N số tiền nợ hụi gốc là 18.300.000 (mười tám triệu ba trăm nghìn) đồng.

2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của anh N đối với yêu cầu buộc chị T trả tiền lãi hụi là 13.700.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí:

Chị Lê Thị T phải chịu 915.000 (chín trăm mười lăm nghìn) đồng án phí sơ thẩm dân sự.

Anh Lâm Thanh N không phải chịu án phí. Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh hoàn trả cho anh N số số tiền tạm ứng án phí anh N đã nộp 950.000 (chín trăm năm mươi nghìn) đồng theo biên lai thu số 0017008 ngày 14/12/2021.

4. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo:

Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 102/2022/DS-ST

Số hiệu:102/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về