Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 09/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 09/2022/DS-ST NGÀY 29/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 29 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 112/2021/TLST-DS, ngày 17 tháng 11 năm 2021 về việc tranh chấp hợp đồng góp hụi, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2022/QĐXXST-DS ngày 31 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1961. Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

- Bị đơn:

+ Ông Nguyễn Văn G, sinh năm 1974. Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

+ Bà Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1975. Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo nội dung đơn khởi kiện đề ngày 01/11/2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Thị S trình bày:

Vào ngày 30/11/2019 âm lịch bà S có làm đầu thảo dây hụi 1.000.000 đồng/1 phần, hụi 01 tháng khui 01 kỳ, dây hụi có 22 phần, vợ chồng ông G và bà T tham gia 02 phần. Khi hợp đồng góp hụi thì giữa bà S và ông G, bà T không có hợp đồng thành văn bản, nhưng bà S có mở sổ theo dõi hụi khui hàng tháng. Khi hụi khui kỳ đầu thì vợ chồng ông G, bà T hốt hụi hết một phần và bà S đã giao đủ số tiền hụi là 15.600.000 đồng cho vợ chồng ông G, bà T sau khi đã trừ tiền đầu thảo. Khi hụi khui kỳ thứ ba thì vợ chồng ông G, bà T hốt chân hụi còn lại và bà S đã giao đủ số tiền 15.600.000 đồng cho ông G, bà T, sau khi đã trừ tiền đầu thảo. Sau khi lãnh tiền hụi thì ông G, bà T góp đến kỳ thứ hai thì không góp nữa nên bà S đứng ra góp thay cho ông G, bà T tiền hụi chết hàng tháng là 09 kỳ/02 phần với số tiền là 18.000.000 đồng. Do ông G, bà T không có tiền trả hụi nên bà S có khởi kiện ông G, bà T tại Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng và Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng đã thụ lý giải quyết xong tại bản án số 14/2021/DS-ST, ngày 14/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện C. Do dây hụi chưa mãn hụi nên bà S chỉ khởi kiện ông G, bà T trả tiền cho bà Sáu 09 kỳ mà bà S đã góp thay, còn lại 09 kỳ cuối cho đển khi mãn hụi chưa khui nên bà S không biết vợ chồng ông G, bà T có góp hụi chết hàng tháng cho bà S hay không, nếu những kỳ hụi chết hàng tháng tiếp theo cho đến khi mãn hụi mà ông G, bà T không góp mà bà S đứng ra góp thay thì bà S sẽ khởi kiện sau.

Nhưng từ khi bà S khởi kiện cho đến khi mãn hụi vợ chồng ông G, bà T không có góp hụi chết hàng tháng cho bà S nên bà S đã góp thay cho ông G, bà T là 09 kỳ/02 phần với số tiền là 18.000.000 đồng. Như vậy trong dây hụi này vợ chồng ông G, bà T còn nợ bà S số tiền là 18.000.000 đồng.

Nay bà S yêu cầu vợ chồng ông Nguyễn Văn G và bà Nguyễn Thị Ngọc T cùng liên đới có trách nhiệm hoàn trả cho bà S số tiền nợ trong hợp đồng góp hụi là 18.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

- Bị đơn ông Nguyễn Văn G và bà Nguyễn Thị Ngọc T: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Tòa án đã cấp, tống đạt, thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông G và bà T nhưng ông G và bà T không có ý kiến trình bày hay yêu cầu gì trong vụ án này.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cù Lao dung, tỉnh Sóc Trăng về việc tuân thủ và chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Riêng bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, theo phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng, người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Theo đơn khởi kiện lập ngày 05/01/2021 của bà Nguyễn Thị S thì giữa bà S và ông G, bà T hợp đồng góp hụi với nhau. Do ông G và bà T vi phạm hợp đồng không hoàn trả lại tiền bà S đã góp, nên bà S khởi kiện yêu cầu ông G và bà T cùng liên đới có trách nhiệm hoàn trả tiền hụi. Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp phát sinh trong vụ kiện này là tranh chấp hợp đồng góp hụi theo quy định tại Điều 471 của Bộ luật Dân sự. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định việc Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng thụ lý, giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án.

[2] Về xét xử vắng mặt: Tại phiên tòa, bị đơn ông Nguyễn Văn G và bà Nguyễn Thị Ngọc T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Bà Nguyễn Thị S trình bày: Vào ngày 30/11/2019 âm lịch bà S có làm đầu thảo dây hụi 1.000.000 đồng/1 phần, hụi 01 tháng khui 01 kỳ, dây hụi có 22 phần, vợ chồng ông G và bà T tham gia 02 phần. Khi hợp đồng góp hụi thì giữa bà S và ông G, bà T không có hợp đồng thành văn bản, nhưng bà S có mở sổ theo dõi hụi khui hàng tháng. Khi hụi khui kỳ đầu thì vợ chồng ông G, bà T hốt hụi hết một phần và bà S đã giao đủ số tiền hụi là 15.600.000 đồng cho vợ chồng ông G, bà T sau khi đã trừ tiền đầu thảo. Khi hụi khui kỳ thứ ba thì vợ chồng ông G, bà T hốt chân hụi còn lại và bà S đã giao đủ số tiền 15.600.000 đồng cho ông G, bà T, sau khi đã trừ tiền đầu thảo. Sau khi lãnh tiền hụi thì ông G, bà T góp đến kỳ thứ hai thì không góp nữa nên bà S đứng ra góp thay cho ông G, bà T tiền hụi chết hàng tháng là 09 kỳ/02 phần với số tiền là 18.000.000 đồng. Do ông G, bà T không có tiền trả hụi nên bà S có khởi kiện ông G, bà T tại Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng, đã thụ lý giải quyết xong tại bản án số 14/2021/DS-ST, ngày 14/7/2021. Do dây hụi chưa mãn hụi nên bà S chỉ khởi kiện ông G, bà T trả tiền cho bà S các kỳ mà bà Sáu đã góp thay, còn lại 09 kỳ cuối cho đển khi mãn hụi chưa khui nên bà S không biết vợ chồng ông G, bà T có góp hụi chết hàng tháng cho bà S hay không, nếu những kỳ hụi chết hàng tháng tiếp theo cho đến khi mãn hụi mà ông G, bà T không góp mà bà S đứng ra góp thay thì bà S sẽ khởi kiện sau. Nhưng từ khi bà S khởi kiện cho đến khi mãn hụi vợ chồng ông G, bà T không có góp hụi chết hàng tháng cho bà S nên bà S đã góp thay cho ông G, bà T là 09 kỳ/02 phần với số tiền là 18.000.000 đồng. Như vậy trong dây hụi này vợ chồng ông G, bà T còn nợ bà Sáu số tiền là 18.000.000 đồng.

[3.2] Xét về hình thức, nội dung và mục đích của hợp đồng: Mặc dù hợp đồng góp hụi giữa bà S và ông G, bà T không lập thành văn bản, nhưng bà S và ông G, bà T cùng thừa nhận có hợp đồng góp hụi với nhau, cụ thể bà S là chủ hụi, ông G và bà T là thành viên, do đó xác định đây là hợp đồng góp hụi theo quy định tại Điều 471 của Bộ luật Dân sự; Điều 5, Điều 6 và Điều 7 của Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 về họ, hụi, biêu, phường của Chính phủ. Bà S và ông G, bà T là những người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, khi giao kết hợp đồng đều hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện của các bên, đối tượng giao dịch được pháp luật cho phép, hình thức, nội dung và mục đích của hợp đồng phù hợp với pháp luật và không trái đạo đức xã hội, nên cần công nhận đây là hợp đồng góp hụi hợp pháp và giải quyết hậu quả phát sinh từ hợp đồng này theo quy định tại Điều 351 và Điều 385 của Bộ luật Dân sự; Điều 27 và Điều 37 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 16 và Điều 24 của Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 về họ, hụi, biêu, phường của Chính phủ.

[3.3] Xét về lỗi: Ông G và bà T là người có lỗi vì đã vi phạm nghĩa vụ không trả phần tiền hụi chết mà bà S đã góp thay cho ông G và bà T. Do đó, bà S yêu cầu ông G và bà T phải hoàn trả cho bà S số tiền hụi gốc 18.000.000 đồng, không tính lãi là hoàn toàn phù hợp theo quy định tại Điều 351 của Bộ luật Dân sự; Điều 16; Điều 17 và Điều 24 của Nghị định số: 19/2006/NĐCP, ngày 19/02/2019 về họ, hụi, biêu, phường của Chính phủ.

[4] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Ông Nguyễn Văn G và bà Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo bản án: Hội đồng xét xử áp dụng Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 351, khoản 2 Điều 357; Điều 385; Điều 471 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27; Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 5, Điều 6 và Điều 7 Điều 16; Điều 17 và Điều 24 của Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị S. Buộc ông Nguyễn Văn G và bà Nguyễn Thị Ngọc T có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Thị S số tiền là 18.000.000 đồng (mười tám triệu đồng).

2. Về chậm thực hiện nghĩa vụ: Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành khoản tiền nêu trên, thì hàng tháng còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án cho đến khi thi hành án xong.

3. Về án phí sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn G và bà Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu 900.000 đồng (chín trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Nguyễn Thị S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị S được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án; ông Nguyễn Văn G và bà Nguyễn Thị Ngọc T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 09/2022/DS-ST

Số hiệu:09/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cù Lao Dung - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về