Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 01/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 01/2024/DS-ST NGÀY 03/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 03 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 492/2023/TLST-DS ngày 07 tháng 11 năm 2023 về việc “tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 218/2023/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phan Thị L, sinh năm 1990; nơi cư trú: Tổ 1, ấp 2, xã E, huyện T, tỉnh T (có mặt)

Bị đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1993; nơi cư trú: Tổ 20, F, thị trấn T, huyện T, tỉnh T (có mặt) Anh Phan Ngọc Đ, sinh năm 1993; nơi cư trú: Tổ 20, F, thị trấn T, huyện T, tỉnh T; tạm trú: tổ 5, ấp 2, xã E, huyện T, tỉnh T (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 07 tháng 11 năm 2023 cùng các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Phan Thị L trình bày: Chị H làm chủ thảo hụi thì chị có tham gia chơi tổng cộng 03 dây hụi cụ thể như sau:

Dây hụi 1: Khui hụi ngày 11/7/2022, mãn hụi vào ngày nào thì chị không biết nhưng nếu muốn lấy tiền hụi gốc thì phải báo trước cho chị H trước 30 ngày, hụi 200.000 đồng/ngày/phần, chị tham gia 20 phần, hụi có bao nhiêu người tham gia thì chị không biết, hụi gồm bao nhiêu phần tham gia chị cũng không biết. Vào ngày khui hụi thì chị đã đóng đủ 20 phần x 187.000 đồng/phần = 108.460.000 đồng, việc đóng hụi có làm giấy. Sau khi giao tiền thì mỗi tháng chị sẽ được chị H trả tiền lời lúc đầu 13.000 đồng/phần/ngày x 20 phần. Sau đó chị H trả được 06 tháng với số tiền 5.540.000 đồng x 06 tháng = 33.240.000 đồng. Đến tháng 02-2023 thì chị H ngưng trả tiền lãi và chị đã thông báo cho chị H trước 30 ngày để nhận tiền góp hụi gốc nhưng chị H vẫn không trả.

Dây hụi 2: Khui ngày 22/9/2022, hụi khui 200.000 đồng/ngày, hụi bao nhiêu phần thì chị không biết, chị tham gia 10 phần, đóng trong vòng 30 ngày, chị đóng một lần cho chị H với số tiền 55.100.000 đồng (đóng một lần thì đóng 29 ngày x 190.000 đồng x 10 phần) lãi 10.000 đồng/phần, chị H có ký nhận tiền hụi của chị. Quy định, sau 30 ngày thì chị H sẽ trả tiền lãi cho chị, còn chị muốn lấy lại số tiền gốc 55.100.000 đồng thì chị phải thông báo cho chị H trước 30 ngày. Chị nhận tiền lãi được 04 tháng, với số tiền 9.600.000 đồng (2.400.000 đòng x 04 tháng). Đến tháng 02-2023 thì chị H ngưng trả tiền lãi và chị đã thông báo cho chị H trước 30 ngày để nhận tiền góp hụi gốc nhưng chị H vẫn không trả.

Dây hụi 3: Khui ngày 04/11/2022, hụi khui 200.000 đồng/ngày, hụi bao nhiêu phần thì chị không biết, chị tham gia 20 phần, đóng trong vòng 30 ngày, chị đóng một lần cho chị H với số tiền 110.200.000 đồng (đóng một lần thì đóng 29 ngày x 190.000 đồng x 20 phần) lãi 10.000 đồng/phần, chị H có ký nhận tiền hụi của chị. Quy định, sau 30 ngày thì chị H sẽ trả tiền lãi cho chị, còn chị muốn lấy lại số tiền gốc 110.200.000 đồng thì chị phải thông báo cho chị H trước 30 ngày. Chị nhận tiền lãi được 02 tháng, với số tiền 9.600.000 đồng (4.800.000 đòng x 02 tháng). Đến tháng 02-2023 thì chị H ngưng trả tiền lãi và chị đã thông báo cho chị H trước 30 ngày để nhận tiền góp hụi gốc nhưng chị H vẫn không trả.

Tổng cộng, 03 dây hụi chị H tH2 chị là 273.760.000 đồng. Sau nhiều lần đòi tiền thì chị H có trả cho chị được 63.260.000 đồng và không trả tiền nữa. Hiện nay, chị H còn tH2 chị 210.500.000 đồng.

Khi chị tham gia góp hụi với chị H thì chị H không đưa danh sách hụi viên, việc chơi hụi chồng chị H là anh Phan Ngọc Đ có biết, biết trong trường hợp vì nhà chúng tôi sát bên nhau và chị đưa tiền hụi cho chị H thì anh Đ có thấy. Do đó, nay chị yêu cầu chị Phạm Thị H và anh Phan Ngọc Đ (chồng chị H) có nghĩa vụ trả cho chị số tiền nợ hụi 210.500.000 đồng và không yêu cầu tính tiền lãi.

Bị đơn chị Phạm Thị H trình bày: Qua lời trình bày của chị L thì chị nghe rõ và chị L trình bày như thế là đúng.

Khi chị khui hụi vào ngày 11/7/2022 thì chị và anh Đ còn là vợ chồng và sống tại xã E, việc chơi hụi với chị L thì anh Đ không biết, việc chi phí trong gia đình là do anh Đ chi phí bằng nguồn tiền thu hoạch cao su (cha mẹ chồng cho 3,3 ha cao su). Nguồn tiền chị nhận của chị L là chị giữ và chi phí vào việc choàng hụi khi có hụi viên không đóng hụi, cụ thể chị choàng hụi cho ai thì chị không nhớ.

Dây thứ 1: Khui hụi ngày 11/7/2022, hụi chỉ có 02 người tham gia chơi gồm 01 người nuôi hụi và 01 người hốt hụi (trong dây hụi này thì chị L là người nuôi hụi còn anh Lâm Tài H2, sinh năm 1977, địa chỉ: số 335, đường T, phường 5, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng là người hốt hụi) và người nuôi hụi sẽ đóng 01 lần với tổng số tiền mà người nuôi hụi tham gia và người hốt hụi cũng nhận 01 lần, việc chơi hụi tôi không lập danh sách cũng không xin phép với UBND xã E về việc làm chủ hụi. Sau khi nhận được số tiền của chị L thì tôi đã chuyển số tiền này cho anh H2 bằng hình thức chuyển khoản nhiều lần. Sau khi tôi nhận tiền của chị L thì tôi đã trả được cho chị L 08 tháng với số tiền không nhớ, việc trả không làm giấy.

Dây hụi 2: Khui ngày 22/9/2022, mãn vào ngày 21/10/2022, hụi chỉ có 02 người tham gia chơi gồm 01 người nuôi hụi và 01 người hốt hụi (trong dây hụ i này thì chị L là người nuôi hụi còn anh Lâm Tài H2, sinh năm 1977, địa chỉ: số 335, đường T, phường 5, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng là người hốt hụi) và người nuôi hụi sẽ đóng 01 lần với tổng số tiền mà người nuôi hụi tham gia và người hốt hụi cũng nhận 01 lần, việc chơi hụi tôi không lập danh sách cũng không xin phép với UBND xã E về việc làm chủ hụi. hụi khui 200.000 đồng/ngày, chị L tham gia 10 phần, chị L đóng 01 lần với số tiền 55.100.000 đồng, lãi 10.000 đồng/phần, việc chị L giao tiền thì chị có ký nhận.

Dây hụi 3: Khui ngày 04/11/2022, mãn vào ngày 03/12/2022, hụi chỉ có 02 người tham gia chơi gồm 01 người nuôi hụi và 01 người hốt hụi (trong dây hụi này thì chị L là người nuôi hụi còn anh Lâm Tài H2, sinh năm 1977, địa chỉ: số 335, đường T, phường 5, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng là người hốt hụi) và người nuôi hụi sẽ đóng 01 lần với tổng số tiền mà người nuôi hụi tham gia và người hốt hụi cũng nhận 01 lần, việc chơi hụi tôi không lập danh sách cũng không xin phép với UBND xã E về việc làm chủ hụi. hụi khui 200.000 đồng/ngày, chị L tham gia 20 phần, chị L đóng 01 lần với số tiền 110.200.000 đồng, lãi 10.000 đồng/phần.

Tổng cộng, 03 dây hụi chị L đã giao cho tôi số tiền 273.760.000 đồng. Sau đó tôi đã trả cho chị L được 63.260.000 đồng. Hiện nay tôi còn thiếu 210.500.000 đồng.

Nay tôi đồng ý trả cho chị L 210.500.000 đồng. Do khi chơi hụi thì chồng tôi là anh Phan Ngọc Đ không biết, đến nay tôi cũng đã ly hôn với anh Đ nên tôi không yêu cầu anh Đ L đới trả.

Anh Phan Ngọc Đ trình bày: Anh và chị Phạm Thị H kết hôn vào năm 2014, có đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn thì sống tại xã E. Đến năm 2018 thì về thị trấn T sống trên đất của cha ruột tôi. Đến năm 2021 thì về lại xã E sống. Đến tháng 06 năm 2023 thì vợ bỏ về nhà cha mẹ ruột sống tại ấp V, xã A, huyện Bến Cầu, tỉnh T. Đến tháng 7 năm 2023 thì vợ chồng ly hôn và đã được tòa án nhân dân huyện Bến Cầu giải quyết cho ly hôn.

Trong năm 2022 vợ làm chủ hụi thì tôi hoàn toàn không biết, đến khoảng tháng 6 hoặc tháng 7 năm 2022 thì mới biết vợ làm chủ hụi. Khi biết thì tôi có ngăn cảng nhưng vợ vẫn làm nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn dẫn đến ly hôn.

Khi còn chung sống thì sinh hoạt trong gia đình là do cha cho 03 ha cao su đang thu hoạch mủ có để chi phí sinh hoạt gia đình. Số tiền vợ chơi hụi vợ làm gì tôi không biết.

Nay do tôi không biết việc vợ chơi hụi và cũng không biết số tiền này vợ sử dụng vào việc gì nên tôi không đồng ý L đới trả. Ngoài ra thì tôi không còn trình bày gì thêm.

Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên toà:

+ Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng; Những người tham gia tố tụng và tiến hành tố tụng trong vụ án đã chấp hành đúng quy định pháp luật khi giải quyết, xét xử vụ án.

Về nội dung vụ án:

Căn cứ các Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27 Luật hôn nhân gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tung dân sự; Nghị định số 19/2019/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Đề nghị hội đồng xét xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị L.

Buộc chị Phạm Thị H, anh Phan Ngọc Đ có nghĩa vụ trả cho chị Phan Thị L số tiền hụi 210.500.000 đồng. Ghi nhận chị L không yêu cầu tính tiền lãi.

Chị Phạm Thị H, anh Phan Ngọc Đ phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[ 1 ] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả tiền hụi, nên xác định quan hệ tranh chấp là “tranh chấp hợp đồng góp hụi” thuộc tranh chấp hợp đồng dân sự quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ Luật Tố tụng dân sự; Do tranh chấp về hợp đồng dân sự nên căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 35 Bộ Luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân cấp huyện; bị đơn cư trú tại huyện T, tỉnh T nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh T theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[ 2 ] Nội dung vụ kiện: Tại phiên tòa chị L yêu cầu chị H, anh Đ trả tiền hụi 210.500.000 đồng. Chị H thừa nhận còn thiếu 210.500.000 đồng và đồng ý trả. Riêng anh Đ không đồng ý trả vì việc chị H chơi hụi anh không biết.

[ 3 ] Xét lời trình bày của anh Đ cho rằng việc chơi hụi giữa chị H và chị L anh không biết, đến nay anh và chị H đã ly hôn nên anh không đồng ý trả. Qua xem xét tin nhắn giữa chị L với anh Đ thì thể hiện anh Đ biết việc chị H thiếu tiền nợ hụi với chị L và anh Đ còn hứa sẽ bán đất rồi trả, ngoài ra khi chị H làm chủ hụi và chị L tham gia chơi hụi thì chị H và anh Đ còn là vợ chồng nên anh Đ cho rằng việc chơi hụi giữa chị L với chị H anh không biết là không có cơ sở, chị L yêu cầu anh Đ liên đới trả là có căn cứ chấp nhận.

Từ nhận định trên cần buộc chị H, anh Đ có nghĩa vụ trả cho chị L số tiền 210.500.000 đồng. Ghi nhận chị L không yêu cầu tính tiền lãi.

[ 4 ] Về án phí: Chị H, anh Đ phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27 Luật hôn nhân gia đình; Nghị định số 19/2019/ NĐ-CP, ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số:

326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị L tranh chấp hợp đồng góp hụi đối với chị Phạm Thị H, anh Phan Ngọc Đ.

- Buộc chị Phạm Thị H, anh Phan Ngọc Đ có nghĩa vụ liên đới trả cho chị Phan Thị L số tiền 210.500.000 (hai trăm mười triệu năm trăm nghìn) đồng. Ghi nhận chị L không yêu cầu tính tiền lãi.

Kể từ ngày chị L có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chị H, anh Đ chưa thi hành hết số tiền như đã nêu trên thì hàng tháng chị H, anh Đ còn phải chịu thêm tiền lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc chị Phạm Thị H, anh Phan Ngọc Đ phải chịu 10.525.000 (mười triệu năm trăm hai mươi lăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Phan Thị L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, nên Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh T hoàn trả cho chị Phan Thị L tiền tạm ứng án phí 5.262.000 (năm triệu hai trăm sáu mươi hai nghìn) đồng tại biên lai thu số 0005537, ngày 07/11/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh T.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Báo cho chị L, chị H, anh Đ biết được quyền kháng cáo Tòa án nhân dân tỉnh T trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 01/2024/DS-ST

Số hiệu:01/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:03/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về