Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi, hợp đồng vay tài sản số 03/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KT, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 03/2022/DS-ST NGÀY 11/01/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI, HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã KT, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 88/2021/TLST-DS, ngày 02 tháng 11 năm 2021 về việc tranh chấp hợp đồng góp hụi, hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2021/QĐXX-ST ngày 03/12/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Võ Quốc Ph, sinh năm 1981.

Địa chỉ: Khu phố 3, phường 3, thị xã KT, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1987. (có đơn đề nghị vắng mặt).

Địa chỉ: Số 160, ấp GD, xã BH, thị xã KT, tỉnh Long An.

2. Bị đơn:

- Ông Võ Đức Nh, sinh năm 1981. (có mặt)

- Bà Lê Thị Cà B, sinh năm 1987. (có mặt) Địa chỉ: Khu phố 3, phường 3, thị xã KT, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và phần trình bày của nguyên đơn, của người đại diện theo ủy quyền trong quá trình giải quyết vụ án như sau:

Tại đơn khởi kiện, ông Võ Quốc Ph cầu ông Võ Đức Nh và bà Lê Thị Cà B trả số tiền nợ hụi và tiền nợ vay 177.550.000 đồng. Tuy nhiên, ông Ph rút một phần yêu cầu khởi kiện là 39.000.000 đồng trong dây hụi mở ngày 28/6/2017 (thể hiện tại bản tự khai đề ngày 27/12/2021 của ông Ph). Số tiền hụi và tiền vay yêu cầu trả là 137.650.000 đồng (trong đó tiền hụi 84.000.000 đồng, tiền vay gốc và lãi 53.650.000 đồng).

Về căn cứ khởi kiện:

Vợ chồng bà B, ông Nh có tham gia các dây hụi do ông Ph tổ chức còn nợ tiền hụi 84.000.000 đồng, cụ thể:

1. Dây hụi 3.000.000 đồng/phần mở ngày 30/6/2020, mỗi tháng khui 01 lần, tổng 15 người tham gia, vợ chồng bà B tham gia 01 phần, đã lãnh hụi kỳ thứ 2 được số tiền 29.950.000 đồng. Dây hụi mãn ngày 30/9/2021 nhưng đến nay vợ chồng bà B chưa đóng hụi của kỳ ngày 30/7/2021, kỳ ngày 30/8/2021 và kỳ ngày 30/9/2021, tổng số tiền thiếu là 9.000.000 đồng.

2. Dây hụi 5.000.000 đồng/phần mở ngày 30/10/2019, hai tháng khui một lần, có 14 người tham gia, vợ chồng bà B tham gia 01 phần, đã lãnh hụi kỳ đầu tiên. Dây hụi mãn ngày 30/9/2021, đến nay còn thiếu 03 kỳ hụi chưa đóng là kỳ ngày 30/5/2021, kỳ ngày 30/7/2021 và kỳ 30/9/2021, tổng số tiền thiếu 15.000.000 đồng.

3. Dây hụi 10.000.000 đồng/phần mở ngày 06/02/2018, mỗi năm khui 02 lần, tổng 10 người tham gia, vợ chồng bà B tham gia 01 phần, đã lãnh kỳ thứ 3 được số tiền 57.100.000 đồng. Hụi mãn ngày 06/6/2022, vợ chồng bà B còn thiếu 03 kỳ hụi là kỳ ngày 06/6/2021, kỳ hụi ngày 06/02/2022 và kỳ hụi ngày 06/6/2022, tổng số tiền 30.000.000 đồng.

4. Dây hụi 10.000.000 đồng/phần mở ngày 08/02/2019, 03 tháng khui một lần, tổng 13 người tham gia, vợ chồng bà B tham gia 01 phần, đã lãnh hụi kỳ thứ 3 được 70.000.000 đồng. Hụi mãn ngày 08/01/2022. Vợ chồng bà B còn thiếu 03 kỳ hụi vào ngày 08/7/2021, kỳ ngày 08/10/2021 và kỳ 08/01/2022, tổng số tiền 30.000.000 đồng.

Việc giao nhận tiền hụi giữa các bên không lập thành văn bản giấy tờ.

Về tiền vay: Ngày 03/3/2020 ông Ph cho vợ chồng bà B vay 50.000.000 đồng (không lập biên nhận vay). Tại bản tự khai đề ngày 27/12/2021 của ông Ph và bản tự khai 10/01/2022 người đại diện của ông Ph xác định tiền lãi thỏa thuận miệng là 1%/tháng (không phải 3%/tháng, 5%/tháng), xác định bị đơn đã trả lãi từ khi vay tiền cho đến ngày 03/3/2021, rồi từ đó đến nay chưa thanh toán lãi và gốc. Ban đầu thỏa thuận hạn vay 02 tháng, sau đó bị đơn khất nợ nên ông Ph cũng đồng ý. Đến tháng 02/2021 ông Ph yêu cầu trả nợ nhưng đến nay chưa trả.

Nay ông Ph yêu cầu bị đơn trả nợ vay gốc 50.000.000 đồng và tiền lãi theo lãi suất 1%/tháng từ ngày 03/3/2021 đến 07/10/2021 là 3.650.000 đồng.

Đối với dây hụi 20.000.000 đồng/phần mở ngày 28/6/2017, số tiền ông Ph yêu cầu trả theo đơn khởi kiện là 39.000.000 đồng, tuy nhiên ông Ph rút lại yêu cầu này. Dây hụi này vợ chồng bà B tham gia 03 phần, lãnh hụi phần thứ ba vào kỳ cuối là tháng 02/2021 được 100.000.000 đồng, sau khi trừ hoa hồng còn 93.000.000 đồng, ông Ph đã giao tiền cho bà B. Vì là chỗ quen biết nên khi giao tiền không lập biên nhận hay giấy tờ. Ông Ph xác định không có việc cấn trừ tiền nợ vay và nợ hụi như bị đơn trình bày, ông Ph cũng không đồng ý trả số tiền này như yêu cầu của vợ chồng bà B.

Bị đơn ông Võ Đức Nh và bà Lê Thị Cà B trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa như sau:

Vợ chồng ông Nh, bà B có tham gia các dây hụi do ông Ph tổ chức, chỉ thừa nhận nợ tổng số tiền hụi là 50.000.000 đồng, cụ thể:

1. Dây hụi 3.000.000 đồng/phần mở ngày 30/6/2020, mỗi tháng khui 01 lần, 15 người tham gia, ông bà tham gia 01 phần, đã lãnh hụi được số tiền cụ thể bao nhiêu không nhớ. Ông, bà đã đóng đến khi mãn hụi nên không còn thiếu nợ. Khi giao tiền hụi cho ông Ph thì không làm biên nhận, không có ai chứng kiến nên không có chứng cứ chứng minh.

2. Dây hụi 5.000.000 đồng/phần, mở ngày 30/10/2019, hai tháng khui một lần, 14 người tham gia, ông, bà tham gia 01 phần, đã lãnh hụi và thừa nhận chỉ thiếu 02 kỳ hụi cuối số tiền 10.000.000 đồng, kỳ hụi tháng 5/2021 bà B xác định đã đóng cho ông Ph, tuy nhiên khi giao tiền hụi thì không làm biên nhận, không có ai chứng kiến nên không có chứng cứ chứng minh 3. Dây hụi 10.000.000 đồng/phần mở ngày 06/02/2018, mỗi năm khui 02 lần, 10 người tham gia, vợ chồng ông, bà tham gia 01 phần, đã lãnh khụi được số tiền cụ thể bao nhiêu không nhớ, đã đóng đến hết kỳ hụi tháng 6/2021, tính đến khi mãn hụi chỉ thiếu 02 kỳ cuối là kỳ tháng 02/2022 và kỳ tháng 6/2022 số tiền 20.000.000 đồng. Nay 02 kỳ hụi này chưa đến hạn nhưng ông bà cũng đồng ý trả tiền cho ông Ph là 20.000.000 đồng.

4. Dây hụi 10.000.000 đồng/phần mở ngày 08/02/2019, ba tháng khui một lần, 13 người tham gia, vợ chồng ông, bà tham gia 01 phần, đã lãnh hụi. Ông, bà chỉ thiếu 02 kỳ hụi cuối là kỳ tháng 10/2021 và kỳ tháng 01/2022 là 20.000.000 đồng. Kỳ hụi tháng 7/2021 đã giao tiền hụi cho ông Ph nên không thiếu.

Khi đóng tiền hụi cho ông Ph thì ông bà giao tiền trực tiếp, không làm biên nhận, không có người chứng kiến nên không cung cấp được chứng cứ cho Tòa án.

Ngoài ra, dây hụi 20.000.000 đồng/phần, mở ngày 28/6/2017, một năm khui 02 lần, tổng 08 phần thì vợ chồng ông, bà tham gia 03 phần. Hụi mãn ngày 28/02/2021, ông, bà được lãnh phần thứ 03 vào kỳ cuối ngày 28/02/2021 được số tiền 100.000.000 đồng (trừ tiền hoa hồng 7.000.000 đồng) còn 93.000.000 đồng nhưng ông Ph không giao tiền mà nói cấn trừ tiền nợ vay gốc 50.000.0000 đồng (vay ngày 03/3/2020) và lãi, tiền nợ hụi. Tuy nhiên, nay ông Ph cho rằng không cấn trừ nên ông bà yêu cầu ông Ph trả số tiền 93.000.000 đông nêu trên.

Về việc ông Ph rút lại yêu cầu trả 39.000.000 đồng tiền hụi của dây hụi ngày 28/6/2017, ông bà thống nhất và không có ý kiến gì.

Về tiền vay: Ngày 03/3/2020 ông, bà vay ông Ph 50.000.000 đồng để sử dụng trong gia đình. Thỏa thuận miệng lãi suất 5%/tháng từ khi vay, ông bà đã trả lãi đầy đủ mỗi tháng 2.500.000 đồng từ khi vay đến hết tháng 02/2021. Từ tháng 3/2021 đến nay chưa trả lãi và gốc vì khi đó ông Ph nói cấn trừ tiền hụi. Vì lãi suất thỏa thuận miệng, khi giao tiền lãi cũng không làm biên nhận nên không có chứng cứ cung cấp. Đề nghị Tòa án xem xét điều chỉnh mức lãi suất mà ông, bà đã trả cho ông Ph từ khi vay tiền đến hết tháng 02/2021 theo lãi suất đã trả 5%/tháng.

Khi vay tiền thỏa thuận thu hoạch lúa (tháng 62020) trả, sau đó thỏa thuận vẫn trả lãi cho ông Ph nên không đòi, đến tháng 02/2021 thì ông Ph nói cấn trừ vào tiền hụi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định như sau:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của ông Ph và yêu cầu phản tố của bị đơn bà B và ông Nh. Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp là tranh chấp hợp đồng góp hụi và hợp đồng vay tài sản theo Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại thị xã KT nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã KT theo khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về phạm vi khởi kiện: Nguyên đơn khởi kiên yêu cầu bị đơn trả tiền nợ hụi, nợ vay. Bị đơn có yêu cầu phản tố trả tiền hụi và yêu cầu điều chỉnh mức lãi suất theo quy định. Căn cứ Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xem xét trong phạm vi yêu cầu khởi kiện nêu trên.

[3] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đương sự.

[4] Về nội dung vụ án:

[4.1] Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Ph có bản tự khai rút lại một phần yêu cầu khởi kiện số tiền 39.000.000 đồng trong dây hụi mở ngày 28/6/2017. Bị đơn thống nhất và không có ý kiến yêu cầu gì khác nên căn cứ Điều 217, 218 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu trên.

[4.2] Các vấn đề đã thống nhất:

Về tranh chấp hụi: Các đương sự đều thống nhất nội dung bà B và ông Nh có tham gia một phần trong các dây hụi do ông Ph làm chủ hụi và đã lãnh hụi, cụ thể: Dây hụi 3.000.000 đồng/phần mở ngày 30/6/2020, mỗi tháng khui một lần; Dây hụi 5.000.000 đồng/phần mở ngày 30/10/2019, hai tháng khui một lần; Dây hụi 10.000.000 đồng/phần mở ngày 06/02/2018, mỗi năm khui hai lần; Dây hụi 10.000.000 đồng/phần mở ngày 08/02/2019, ba tháng khui một lần. Thống nhất dây hụi 20.000.000 đồng/phần, mở ngày 28/6/2017, một năm khui hai lần, bị đơn tham gia 03 phần.

Về tranh chấp tiền vay: Bà B và ông Nh thống nhất có vay ông Ph 50.000.000 đồng ngày 03/3/2020.

[4.3] Nội dung không thống nhất:

Về tranh chấp hụi: Nguyên đơn ông Ph khởi kiện yêu cầu bị đơn bà B, ông Nh trả 84.000.000 đồng tiền hụi còn thiếu trong 04 dây hụi. Ngược lại bị đơn chỉ thừa nhận nợ hụi tổng số tiền 50.000.000 đồng và đồng ý trả số tiền này.

Hội đồng xét xử xét thấy:

Dây hụi tháng 3.000.000 đồng/phần mở ngày 30/6/2020, mãn ngày 30/9/2021: Nguyên đơn yêu cầu trả 9.000.000 đồng tiền hụi chưa đóng các kỳ ngày 30/7/2021, kỳ ngày 30/8/2021 và kỳ ngày 30/9/2021. Bị đơn thừa nhận đã lãnh hụi và cho rằng đã đóng đến khi mãn hụi nhưng không có chứng cứ chứng minh về việc đã giao tiền hụi. Do đó, ông Ph khởi kiện yêu cầu trả 9.000.000 đồng là có căn cứ chấp nhận.

Dây hụi 5.000.000 đồng/phần mở ngày 30/10/2019, hai tháng khui một lần, dây hụi đã mãn, nguyên đơn yêu cầu trả 03 kỳ hụi thiếu ngày 30/5/2021, kỳ 30/7/2021 và kỳ 30/9/2021 là 15.000.000 đồng. Bị đơn thừa nhận đã lãnh hụi và cho rằng chỉ thiếu kỳ hụi tháng 7 và tháng 9/2021 là 10.000.000 đồng, không thừa nhận thiếu kỳ hụi tháng 5/2021 vì cho rằng đã đóng hụi, tuy nhiên không có tài liệu chứng cứ chứng minh, do đó ông Ph khởi kiện yêu cầu trả 15.000.000 đồng là có căn cứ chấp nhận.

Dây hụi 10.000.000 đồng/phần mở ngày 06/02/2018, mỗi năm khui hai lần, mãn hụi 06/6/2022, nguyên đơn yêu cầu trả 03 kỳ hụi là 30.000.000 đồng theo kỳ ngày 06/6/2021, kỳ 06/02/2022 và kỳ 06/6/2022. Bị đơn thừa nhận đã lãnh hụi và cho rằng đã đóng hụi kỳ tháng 6/2021 nên chỉ thiếu 20.000.000 đồng của kỳ hụi thiếu 06/02/2022 và kỳ 06/6/2022 là 20.000.000 đồng. Tuy nhiên bị đơn không có chứng cứ chứng minh đã giao tiền hụi kỳ tháng 6/2021 cho ông Ph, tính đến khi nộp đơn khởi kiện thì bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ nên ông Ph yêu cầu trả kỳ này là có căn cứ chấp nhận. Đối với kỳ hụi tháng 2/2022 và kỳ tháng 6/2022 chưa đến thời hạn đóng hụi, lẽ ra nguyên đơn chưa đủ điều kiện khởi kiện, tuy nhiên tại phiên tòa bị đơn thừa nhận và đồng ý trả số tiền này cho nguyên đơn. Đây là sự tự nguyện của đương sự không trái đạo đức xã hội, không vi phạm pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Như vậy có căn cứ buộc bị đơn trả 30.000.000 đồng trong dây hụi mở ngày 06/02/2018.

Dây hụi 10.000.000 đồng/phần mở ngày 08/02/2019, ba tháng khui một lần, mãn hụi ngày 08/01/2022, nguyên đơn yêu cầu trả số tiền 30.000.000 đồng của ba kỳ hụi ngày 08/7/2021, ngày 08/10/2021, ngày 08/01/2022. Bị đơn thừa nhận đã lãnh hụi và cho rằng chỉ thiếu kỳ hụi tháng 10/2021 và kỳ tháng 01/2022 là 20.000.000 đồng. Đối với hụi kỳ tháng 7/2021 bị đơn cho rằng đã đóng nhưng không có chứng cứ chứng minh. Xét thấy, tính đến thời điểm ông Ph nộp đơn khởi kiện thì kỳ hụi tháng 01/2022 chưa đến hạn, tuy nhiên tính đến thời điểm xét xử đã tới hạn, đồng thời bị đơn cũng thừa nhận và thống nhất trả cho ông Ph nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông Ph, buộc bị đơn trả 30.000.000 đồng tiền hụi cho nguyên đơn.

Về tranh chấp tiền vay: Bị đơn thừa nhận có vay của ông Ph 50.000.000 đồng ngày 03/3/2021. Bị đơn cho rằng các bên có thỏa thuận cấn trừ nợ trong số 93.000.000 đồng tiền hụi mà mình được lãnh vào kỳ hụi tháng 02/2021 (dây hụi 20.000.000 đồng/phần mở ngày 28/6/2017). Tuy nhiên nguyên đơn ông Ph không thừa nhận về việc cấn trừ tiền hụi, hiện bị đơn cũng thống nhất và đang yêu cầu ông Ph trả số tiền 93.000.000 đồng vì chưa cấn trừ hụi. Do đó, ông Ph khởi kiện yêu cầu trả số tiền này là có căn cứ chấp nhận.

Về tiền lãi: Nguyên đơn cho rằng lãi suất thỏa thuận 1%/tháng. Ngược lại bị đơn cho rằng lãi suất thỏa thuận là 5%/tháng từ khi vay. Xét thấy các bên trình bày không thống nhất về mức lãi suất đã thỏa thuận và không đưa ra được chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình. Bị đơn cho rằng lãi suất 5%/tháng và đề nghị điều chỉnh lại mức lãi trên theo quy định pháp luật, tuy nhiên không có chứng cứ chứng minh nên không có căn cứ xem xét và điều chỉnh lại mức lãi suất như bị đơn yêu cầu.

Các bên đều thống nhất về thời gian mà bị đơn đã trả lãi là từ khi vay đến ngày 03/3/2021. Nay nguyên đơn yêu cầu tính lãi từ ngày 03/3/2021 đến ngày 14/10/2021 theo mức lãi suất 1%/tháng là phù hợp Điều 468 Bộ luật dân sự nên Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận, cụ thể số tiền lãi như sau: 50.000.000 đồng x 1%/tháng x 07 tháng 10 ngày = 3.666.000 đồng. Nguyên đơn chỉ yêu cầu số tiền lãi 3.650.000.000 đồng là có lợi cho bị đơn nên có căn cứ chấp nhận.

Về yêu cầu phản tố của bị đơn yêu cầu ông Ph trả 93.000.000 đồng tiền hụi trong dây hụi mở ngày 28/6/2017. Xét thấy các bên đều thừa nhận bị đơn có tham gia dây hụi này và được lãnh phần hụi vào kỳ cuối là tháng 02/2021 số tiền sau khi trừ hoa hồng còn 93.000.000 đồng. Bị đơn cho rằng ông Ph chưa giao số tiền này cho mình nên yêu cầu trả, ngược lại ông Ph cho rằng đã giao tiền cho bị đơn nhưng không đưa ra được chứng cứ chứng minh. Tòa án đã yêu cầu và ấn định thời gian cho ông Ph cung cấp chứng cứ nhưng không cung cấp được. Do đó việc ông Ph cho rằng đã giao tiền cho bị đơn là không đủ căn cứ. Từ đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bị đơn buộc ông Ph có nghĩa vụ trả cho bị đơn số tiền trên.

[4.4] Về trách nhiệm liên đới: Ông Nh, bà B là vợ chồng và thừa nhận tiền hụi, tiền vay của ông Ph về sử dụng trong gia đình. Căn cứ Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình thì ông Nh và bà B có trách nhiệm liên đới trả nợ cho ông Ph.

[4.5] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn có trách nhiệm liên đới trả nguyên đơn số tiền hụi 84.000.000 đồng, tiền nợ vay gốc 50.000.000 đồng, tiền lãi vay 3.650.000 đồng. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện phản tố của bị đơn buộc ông Ph có trách nhiệm trả cho bị đơn tiền hụi 93.000.000 đồng.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Các đương sự phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, 217, 218, 227, 228, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 274, 275, 280, 288, 463, 466, 468, 471 của Bộ luật Dân sự. Áp dụng Nghị định số 19/2019/NĐ-CP của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường. Áp dụng Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Áp dụng Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Quốc Ph về việc tranh chấp hợp đồng góp hụi và hợp đồng vay tài sản với bà Lê Thị Cà B và ông Võ Đức Nh.

Buộc bà Lê Thị Cà B và ông Võ Đức Nh có trách nhiệm liên đới trả cho ông Võ Đức Ph số tiền hụi 84.000.000 đồng (Tám mươi bốn triệu đồng).

Buộc bà Lê Thị Cà B và ông Võ Đức Nh có trách nhiệm liên đới trả cho ông Võ Đức Ph số tiền nợ vay gốc là 50.000.000 đồng, số tiền lãi là 3.650.000 đồng.

2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Võ Đức Nh và bà Lê Thị Cà B về tranh chấp hợp đồng góp hụi với ông Võ Quốc Ph. Buộc ông Võ Quốc Ph có trách nhiệm trả cho ông Võ Đức Nh và bà Lê Thị Cà B số tiền hụi là 93.000.000 đồng (Chín mươi ba triệu đồng).

3. Trường hợp bên phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ thì kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

4. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của ông Võ Quốc Ph về tranh chấp hợp đồng góp hụi với ông Võ Đức Nh và bà Lê Thị Cà B số tiền 39.000.000 đồng. Hậu quả của của việc đình chỉ: Ông Ph có quyền khởi kiện lại vụ án theo quy định pháp luật.

5. Về án phí:

Ông Võ Quốc Ph phải nộp 4.650.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Ông Ph được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 4.439.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0000533 ngày 29/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự. Ông Ph còn phải nộp số tiền án phí còn thiếu là 211.000 đồng.

Ông Võ Đức Nh và bà Lê Thị Cà B có nghĩa vụ liên đới nộp 6.882.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Ông Nh và bà B được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.325.000 đồng theo biên lai thu số 0000549 ngày 12/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã KT, ông Nh và bà B còn phải nộp 4.557.000 đồng án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được cấp, tống đạt bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi, hợp đồng vay tài sản số 03/2022/DS-ST

Số hiệu:03/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã Kiến Tường - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về