Bản án về tranh chấp hợp đồng góp họ số 15/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 15/2022/DS-ST NGÀY 06/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỌ

Ngày 06-7-2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 05/2022/TLST- DS ngày 21- 02-2022, về “Tranh chấp hợp đồng góp họ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2021/QĐXX-ST ngày 24-5-2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 05/2022/QĐST-DS ngày 16-6-2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Đ; nơi cư trú: Thôn 1, xã LH, huyện VB, thành phố Hải Phòng, vắng mặt (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt);

- Bị đơn: Chị Trần Thị H; nơi cư trú: Thôn 2, xã LH, huyện VB, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 06-02-2022, tại bản tự khai, Biên bản lấy lời khai của đương sự và tại phiên hòa giải nguyên đơn là bà Lê Thị Đ trình bày:

Năm 2018, bà và chị Trần Thị H có thoả thuận về việc góp họ như sau: Chị Trần Thị H là chủ họ, bà là người chơi họ; họ được tổ chức theo tháng và có lãi; người chơi họ góp tiền vào ngày 25 hàng tháng; mỗi suất họ góp 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng)/01 tháng; người nào lấy trước thì các tháng sau phải góp 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng)/01 tháng/01 suất; người nào chưa lấy thì phải góp 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng)/01 tháng/01 suất. Chủ họ có trách nhiệm thu tiền họ và sắp xếp cho những người tham gia lấy họ, ai muốn lấy họ thì phải báo trước cho chủ họ, những người chơi họ thì không biết nhau và không có nghĩa vụ đối với nhau, việc thỏa thuận không lập thành văn bản nhưng khi nộp tiền họ cho chị H, bà có sổ ghi rõ ngày tháng năm nộp tiền họ và chị H ký vào quyển sổ đó, bà có góp chị H 02 họ gồm: Họ ngày 25-5-2018 (Âm lịch) tức ngày 08-7-2018 Dương lịch, họ này lúc đầu có 21 suất tham gia sau đó thêm 04 suất nữa thành 25 suất tham gia; bà vào 04 suất, mỗi suất góp 5.000.000 đồng/tháng, một tháng bà góp cho chị H 20.000.000 đồng, bà đã góp cho chị H được 20 tháng với tổng số tiền là 400.000.000 đồng; họ thứ 02: Góp từ 25-8-2018 (Âm lịch) tức ngày 04-10-2018 (Dương lịch) gồm 21 suất họ, bà vào 02 suất, mỗi suất góp 5.000.000đồng/tháng; một tháng bà phải góp cho chị H 10.000.000 đồng, bà đã góp cho chị H được 17 tháng với tổng số tiền là 170.000.000 đồng. Tổng cộng tiền gốc của 02 họ là 570.000.000 đồng. Nay, bà yêu cầu Toà án nhân dân huyện Vĩnh Bảo buộc chị Trần Thị H phải trả bà số tiền gốc của 02 họ là 570.000.000đ (Năm trăm bảy mươi triệu đồng), bà không yêu cầu chị H phải trả số tiền lãi.

Bị đơn là chị Trần Thị H vắng mặt toàn bộ quá trình tố tụng tại Toà án nhưng tại Biên bản ghi lời khai của đương sự, trình bày:

Chị xác nhận, năm 2018, bà Lê Thị Đ có góp cho chị 02 họ, gồm 06 chân họ (06 suất họ), mỗi suất họ góp 5.000.000 đồng/1 tháng. Những người chơi họ không biết nhau và không có nghĩa vụ gì với nhau; số tiền gốc của 02 họ bà Đ góp cho chị tổng số tiền là 570.000.000 đồng, các bên đã chốt sổ và chị có ký ở dưới sổ góp họ của bà Đ. Khi kết thúc họ, chị có chốt sổ với bà Đ với tổng số tiền nợ họ là 570.000.000 đồng, số tiền này chị đã trừ chân họ, trừ tiền bà Đ vay chị, số tiền còn lại chị đã thanh toán hết cho bà Đ. Tuy nhiên, chị không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh về việc chị đã thanh toán hết tiền cho bà Đ. Nay, bà Lê Thị Đ yêu cầu Toà án buộc chị phải trả bà Đ số tiền gốc của 02 họ là 570.000.000đ (Năm trăm bảy mươi triệu đồng), chị không đồng ý.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã chấp hành đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chấp hành không đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào Điều 471 Bộ luật Dân sự; các điều 18, 21 23, 27 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19-02-2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường. Đề nghị Hội đồng xét xử, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Đ. Buộc chị Trần Thị H phải trả cho bà Đ tổng số tiền đã góp họ là 570.000.000 đồng. Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Bà Lê Thị Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc chị Trần Thị H có nơi cư trú tại xã LH, huyện VB, thành phố Hải Phòng phải trả nợ gốc của 02 họ góp: Ngày 25-5-2018 (Âm lịch) tức ngày 08-7-2018 Dương lịch và họ ngày 25-8-2018 (Âm lịch) tức ngày 04-10-2018 (Dương lịch). Do đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đây là vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng góp họ và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo. Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chấp hành không đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Mặc dù đã được Toà án tống đạt các văn bản tố tụng của Toàn án hợp lệ nhưng đều vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. Tại phiên tòa lần 02 bị đơn vắng mặt không có lý do, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và nguyên đơn.

- Về nội dung vụ án:

[3] Căn cứ vào lời khai của đương sự, các tài liệu chứng cứ do đương sự cung cấp, các tài liệu chứng cứ do Tòa án thu thập được và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Giữa bà Lê Thị Đ và chị Trần Thị H có thỏa thuận việc góp họ, theo đó bà Đ là người góp họ, chị H là chủ họ, cụ thể: Bà Đ góp cho chị H 02 họ, họ ngày 25-5-2018 (Âm lịch) tức ngày 08-7-2018 Dương lịch có 25 suất họ, bà Đ góp 04 suất, mỗi suất góp 5.000.000 đồng/tháng; họ ngày 25-8- 2018 (Âm lịch) tức ngày 04-10-2018 (Dương lịch) có 21 suất họ, bà Đ góp 02 suất, mỗi suất góp 5.000.000đồng/tháng. Khi giao kết hợp đồng góp họ bà Đ và chị H đều là những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, việc thoả thuận thể hiện ý chí tự nguyện của các bên, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Do đó, thoả thuận góp họ giữa bà Lê Thị Đ và chị Trần Thị H là có hiệu lực pháp luật và làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.

[4] Thực hiện hợp đồng góp họ nêu trên bà Lê Thị Đ và chị Trần Thị H đều xác nhận bà Đ đã góp cho chị H 02 họ gồm 06 suất họ, tổng số tiền gốc bà Đ góp cho chị H là 570.000.000 (năm trăm bảy mươi triệu) đồng, cụ thể: Họ 1 bà Đ đã góp cho chị H 20 tháng với số tiền là 400.000.000 đồng; họ thứ 02 bà Đ đã góp cho chị H được 17 tháng với tổng số tiền là 170.000.000 đồng. Tuy nhiên, sau khi chốt sổ họ chị H cho rằng chị đã trừ chân họ, trừ tiền bà Đ vay chị, số tiền còn lại chị đã thanh toán hết cho bà Đ, đến nay chị không còn nợ bà Đ nữa nhưng chị không có chứng cứ gì để chứng minh là chị đã trả hết bà Đ, quá trình giải quyết vụ án Tòa án cũng đã tiến hành lấy lời khai của chị H, yêu cầu chị H cung cấp các tài liệu chứng cứ chứng minh việc chị H đã trả được cho bà Đ số tiền nợ của 02 họ là 570.000.000 đồng nhưng chị H không cung cấp được chứng cứ gì và cũng không có căn cứ gì để chứng minh việc chị đã trừ chân họ, trừ tiền bà Đ vay chị. Do đó, việc chị H cho rằng đã trả hết bà Đ số tiền góp 02 họ tổng số tiền là 570.000.000 đồng là không có căn cứ để chấp nhận.

[5] Từ những phân tích tại mục 3, 4 Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 471 của Bộ luật Dân sự; các điều 18, 21, 23, 27 của Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19-02-2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, họ. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Đ và buộc chị Trần Thị H phải trả cho bà Đ tổng số tiền nợ họ gốc là 570.000.000 (Năm trăm bảy mươi triệu) đồng; quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Bảo tại phiên toà là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về lãi suất họ: Việc vào họ giữa bà Lê Thị Đ và chị Trần Thị H có thoả thuận về lãi. Tuy nhiên, do bà Đ không yêu cầu chị H phải trả lãi nên Hội đồng xét xử không xét giải quyết.

[7] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 266 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào cứ vào các điều 116; 117; 118; 119; 274; 275; 280 và Điều 471 của Bộ luật Dân sự;

Căn cứ vào các điều 18; 21; 23 và 27 của Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19-02-2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, họ.

Căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

1 . Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Đ .

2. Buộc chị Trần Thị H phải trả cho bà Lê Thị Đ tổng số tiền nợ họ là 570.000.000 đồng (Năm trăm bảy mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

3. Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 26.800.000 (Hai mươi sáu triệu tám trăm nghìn) đồng.

4. Về quyền kháng cáo: Bà Lê Thị Đ và chị Trần Thị H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng góp họ số 15/2022/DS-ST

Số hiệu:15/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về