Bản án về tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản số 85/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 85/2022/DS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GIAO KHOÁN VÀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TÀI SẢN

Vào ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 216/2022/TLST-DS ngày 18/5/2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 169/2022/QĐXXST-DS ngày 06 tháng 9 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 107/2022/QĐST-DS ngày 20 tháng 9 năm 2022, giữa:

- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần cà phê T (trước đây là Công ty TNHH MTV cà phê T).

Địa chỉ: Km 17, Quốc lộ 26, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Hoàng P, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê T: Ông Phạm Đình B, sinh năm 1957. Địa chỉ: 65 Trần Nhật D, phường T, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

- Bị đơn: Ông Hà Huy T, sinh năm 1963; Nơi cư trú: Thôn 19/5, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Phạm Đình B trình bày: Vào ngày 25/8/2011, ông Hà Huy T có đơn xin hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên gửi Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty Cổ phần cà phê T) để nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm 1987 của Công ty có diện tích 9.660m2.

Trên cơ sở đơn của ông Hà Huy T thì vào ngày 27/8/2011 giữa ông Hà Huy T và Công ty đã ký Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 853/2011/HĐ-GK với nhau.

Theo hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 853/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 thì: ông Hà Huy T đã nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối của Công ty có diện tích 9.660m2, diện tích bờ lô 1.403m2. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 19/5, thửa đất số 96, tờ bản đồ số 18, địa chỉ thửa đất: thuộc xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nội dung giao khoán được nêu rõ tại Điều 1 của hợp đồng đó là: “1. Bên A khoán gọn vườn cây cà phê cho bên B trực tiếp đầu tư, chăm sóc, bảo vệ, thu hoạch và giao nộp sản phẩm cà phê”. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán có giá là:

43.487.575 đồng; Giá trị vườn cây còn lại: 25.599.529 đồng. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%. Thời hạn giao khoán là 03 năm sau đó gia hạn đến niên vụ 2018-2019, tính từ ngày ký kết hợp đồng. Mức giao khoán hằng năm ông T phải nộp về Công ty theo thoả thuận trong Hợp đồng giao khoán. Cụ thể: niên vụ năm 2011-2012 đến 2013-2014 nộp 2.417 kg cà phê quả tươi/1 niên vụ tương ứng với 5,50tạ cà phê nhân/ha/1 niên vụ; từ niên vụ 2014-2015 đến 2018-2019 nộp 2.308 kg cà phê quả tươi/ 1 niên vụ tương ứng với 5,25 tạ cà phê nhân/ ha/1 niên vụ.

Từ khi nhận vườn cây đến niên vụ thu hoạch 2017-2018, ông Hà Huy T đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây theo đúng quy định của Công ty và thực hiện nghĩa vụ giao nộp sản phẩm đúng theo cam kết tại Hợp đồng. Tuy nhiên, từ niên vụ 2018- 2019 ông T đã không thực hiện nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cà phê quả tươi cho Công ty theo như cam kết của Hợp đồng. Từ năm 2019-2020 cho đến nay hết hạn hợp đồng, Công ty đã thông báo yêu cầu ông T thanh lý, chấm dứt hợp đồng hoặc gia hạn hợp đồng nhưng ông không đồng ý mà vẫn quản lý hưởng lợi từ vườn cây của Công ty. Do đó ông phải có nghĩa vụ đóng sản lượng cho Công ty khi không chịu thanh lý, chấm dứt hợp đồng. Sản lượng nộp của năm 2019-2020, 2020-2021, 2021- 2022. Như vậy, ông T còn nợ sản lượng cà phê quả tươi của Công ty với 04 niên vụ (2018-2019, 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022) là 8.059 kg (tám nghìn, không trăm năm mươi chín kilogam). Trong đó: niên vụ 2018-2019 là 1.135kg, niên vụ 2019- 2020 là 2.308kg, niên vụ 2020-2021 là 2.308kg, niên vụ 2021-2022 là 2.308kg. Chất lượng cà phê: Tỷ lệ cà phê quả chín: ≥ 85%; Tỷ lệ cà phê quả vàng: ≤ 12%; Tỷ lệ cà phê quả xanh: ≤ 3%; Tỷ lệ tạp chất: ≤ 0,5%.

Đối với tiền thuê đất phần 49% của ông nộp cho Công ty theo hợp đồng thì ông chưa nộp, hiện ông vẫn còn nợ tiền thuê đất phần 49% của ông (thời gian từ năm 2015 cho đến năm 2021) và truy thu tiền thuê đất phần 49% của ông từ năm 2006 đến năm 2010 theo hợp đồng hợp tác đầu tư và phân chia sản phẩm số 535/HĐHTĐT ngày 01/9/1998 mà hai bên đã thực hiện với nhau vào năm 1998, chấm dứt vào năm 2010 (sau đó chuyển sang khoán gọn và ông ký hợp đồng khoán gọn với Công ty theo hợp đồng số 853/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011), thời gian truy thu tiền thuê đất của ông Hà Huy T được thực hiện theo Thông báo của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk. Tổng tiền theo thông báo của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk thì số tiền thuê đất ông T phải nộp về Công ty phần 49% ông vẫn chưa nộp cho Công ty (truy thu tiền thuê đất từ năm 2006-2010 và từ năm 2015-2017; trả tiền thuê đất từ năm 2018-2021) là 6.754.245 đồng.

Tại thời điểm ông Hà Huy T nhận khoán vườn cây của Công ty theo Hợp đồng số 853/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 thì tài sản trên đất gồm có các cây trồng sau: 950 cây cà phê vối trồng năm 1987 (trong đó: có 618 cây loại A, 238 cây loại B, 95 cây loại C); 106 cây muồng đen được trồng năm 1987.

Trong quá trình nhận khoán vào ngày 05-7-2021 ông Hà Huy T đã tự ý chặt phá và chiếm đoạt 13 cây muồng đen được trồng năm 1987, hiện còn lại 93 cây. Tổng số 13 cây muồng đen được trồng năm 1987 bị ông T tự ý chặt phá và chiếm đoạt thì Công ty có lập biên bản đối với ông nhưng ông không ký, biên bản đề ngày 05-7- 2021 có xác nhận của Công an xã H. Số lượng 13 cây muồng đen trồng năm 1987 mà ông T đã tự chặt, chiếm đoạt có khối lượng gỗ tròn là 6,07m3. Cho tới thời điểm hiện nay, số cây hiện còn là 93 cây có tổng khối lượng gỗ là 35,58m3. Trong đó: Trồng năm 1987 là 75 cây, khối lượng gỗ là 34,50m3; Trồng năm 2013 (trồng bù cây năm 1987 đã chết) là 18 cây, có khối lượng gỗ là 1,08m3(chưa đủ tiêu chuẩn lấy gỗ).

Hợp đồng giữa ông Tư với Công ty đã hết hạn vào năm 2018-2019. Từ niên vụ 2019-2020 cho đến nay hai bên chưa ký lại hợp đồng mới, chưa thanh lý chấm dứt hợp đồng hoặc gia hạn hợp đồng. Mặc dù Công ty đã nhiều lần thông báo ông đến Công ty để gia hạn hợp đồng hoặc thanh lý, chấm dứt hợp đồng nhưng ông vẫn không thực hiện và ông T vẫn đang quản lý, hưởng lợi từ vườn cây nhận khoán từ năm 2019-2020 cho đến nay. Do đó, Công ty Cổ phần cà phê T đã khởi kiện ông Hà Huy T đến Tòa án. Nguyện vọng của Công ty đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết:

- Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 853/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 giữa ông Hà Huy T với Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là cổ phần cà phê T).

Buộc ông Hà Huy T phải trả lại toàn bộ diện tích đất và vườn cây cho Công ty Cổ phần cà phê T với diện tích 9.660m2, diện tích bờ lô 1.403m2, địa điểm giao khoán: thuộc đội 19/5, Thửa đất số 96, tờ bản đồ số 18. Địa chỉ thửa đất: thuộc xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Theo GCNQSDĐ số K 239519, do UBND tỉnh Đắk Lắk cấp cho Công ty Cổ phần cà phê T vào ngày 16/5/1997. Thửa đất có tứ cận như sau: Phía Bắc giáp: Thửa số 93 (người nhận khoán ông Nguyễn Hữu T1); Phía Nam giáp: Thửa số 109 (người nhận khoán ông Nguyễn Thanh H); Phía Đông giáp: Thửa số 97 (người nhận khoán ông Nguyễn Văn G); Phía Tây giáp: Thửa số 95 (người nhận khoán ông Lê Quang D).

- Buộc ông Hà Huy T phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T 8.059 kg (tám nghìn, không trăm năm mươi chín kilôgam) cà phê quả tươi còn nợ của 04 niên vụ (2018-2019, 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022). Chất lượng cà phê: Tỷ lệ cà phê quả chín: ≥ 85%; Tỷ lệ cà phê quả vàng: ≤ 12%; Tỷ lệ cà phê quả xanh: ≤ 3%; Tỷ lệ tạp chất: ≤ 0,5%. Quy đổi thành tiền tại thời điểm xét xử sơ thẩm là 84.840.000 đồng (tám mươi bốn triệu, tám trăm bốn mươi nghìn đồng).

- Buộc ông Hà Huy T phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T tiền thuê đất (truy thu tiền thuê đất từ năm 2006-2010 và từ năm 2015-2017) và trả tiền thuê đất 04 năm (2018, 2019, 2020, 2021) với tổng tiền là 6.754.245 đồng (sáu triệu, bảy trăm năm mươi bốn nghìn, hai trăm bốn mươi lăm đồng). Cụ thể: Truy thu tiền thuê đất từ năm 2006-2010 là 564.891 đồng; truy thu tiền thuê đất từ năm 2015-2017 là 2.316.515 đồng; tiền thuê đất các năm: năm 2018 là 968.573 đồng, năm 2019 là 968.573 đồng, năm 2020 là 967.846 đồng, năm 2021 là 967.846 đồng.

Theo đơn khởi kiện Công ty yêu cầu ông T trả tiền thuê đất phần 49% của ông cho Công ty với số tiền là: 6.749.469 đồng. Tuy nhiên, căn cứ vào diện tích nhận khoán và diện tích bờ lô mà Công ty đã giao cho ông nên số liệu mà Công ty đã tính toán khi khởi kiện có sự sai số. Do đó, số tiền thuê đất thực tế mà ông T phải nộp phần 49% của ông cho Công ty theo Thông báo của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk là 6.754.245 đồng (sáu triệu, bảy trăm năm mươi bốn nghìn, hai trăm bốn mươi lăm đồng).

- Buộc ông Hà Huy T phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T tiền khấu hao kênh mương, hồ đập của năm 2018 và năm 2019 là: 729.330 đồng (bảy trăm hai mươi chín nghìn, ba trăm ba mươi đồng).

- Buộc ông Hà Huy T phải đền bù thiệt hại cho Công ty Cổ phần cà phê T do hành vi chặt, chiếm đoạt 13 cây muồng đen trồng năm 1987 với khối lượng gỗ tròn là 6,07m3. Theo kết quả định giá tài sản thì trị giá của 13 cây muồng đen trồng năm 1987 có giá là 28.043.400 đồng.

Tại phiên tòa hôm nay Công ty yêu cầu ông Hà Huy T phải bồi thường cho Công ty thiệt hại phần 70% trị giá của 13 cây muồng đen trồng năm 1987 do ông đã tự ý chặt hạ, chiếm đoạt với số tiền là 19.630.380 đồng.

Đối với số tiền còn lại 8.413.020 đồng phần 30% của ông T thì Công ty không yêu cầu ông T phải bồi thường và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Công ty Cổ phần cà phê T xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 8.413.020 đồng.

* Đối với bị đơn ông Hà Huy T khai: Trong quá trình giải quyết vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng cố tình vắng mặt không tham gia tố tụng nên Tòa án không ghi được lời khai.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Thành phần Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đúng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Đối với bị đơn mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do là vi phạm quy định tại các Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều 227, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; các Điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503, 506, 507, 508, 510, 511 của Bộ luật dân sự năm 2005; điểm c khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 7, 8, 9, 10, 12 của Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ; Thông tư số 102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ; Luật đất đai năm 2003.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê T:

1.1 Buộc ông Hà Huy T phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T 8.059 kg (tám nghìn, không trăm năm mươi chín kilôgam) cà phê quả tươi còn nợ của 04 niên vụ (2018-2019, 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022), quy ra trị giá bằng tiền là 84.840.000 đồng (tám mươi bốn triệu, tám trăm bốn mươi nghìn đồng).

1.2 Buộc ông Hà Huy T phải nộp tiền thuê đất phần 49% của ông cho Công ty Cổ phần cà phê T (truy thu tiền thuê đất từ năm 2006-2010 và năm 2015-2017; tiền thuê đất từ năm 2018-2021) với tổng số tiền 6.754.245 đồng (sáu triệu, bảy trăm năm mươi bốn nghìn, hai trăm bốn mươi lăm đồng). Cụ thể: Truy thu tiền thuê đất từ năm 2006-2010 là 564.891 đồng và từ năm 2015-2017 là 2.316.515 đồng; trả tiền thuê đất các năm: năm 2018 là 968.573 đồng, năm 2019 là 968.573 đồng, năm 2020 là 967.846 đồng, năm 2021 là 967.846 đồng.

1.3 Buộc ông Hà Huy T phải trả tiền khấu hao kênh mương hồ đập cho Công ty Cổ phần cà phê T các năm 2018, 2019 với số tiền là 729.330 đồng (bảy trăm hai mươi chín nghìn, ba trăm ba mươi đồng).

1.4 Buộc ông Hà Huy T phải bồi thường cho Công ty Cổ phần cà phê T thiệt hại do hành vi tự ý chặt phá 13 cây muồng đen trồng năm 1987 phần 70% của Công ty với số tiền 19.630.380 đồng (mười chín triệu triệu, sáu trăm ba mươi nghìn, ba trăm tám mươi đồng).

1.5 Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 853/2011/HĐ-KG ngày 27/8/2011 đã ký kết giữa Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty Cổ phần cà phê T) với ông Hà Huy T.

Buộc ông Hà Huy T có nghĩa vụ trả lại toàn bộ diện tích đất đã nhận khoán, diện tích đất bờ lô và tài sản trên đất đã nhận khoán theo hợp đồng đã ký kết, cụ thể: Diện tích cà phê giao khoán 9.660m2, diện tích bờ lô 1.403m2. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 19/5, thửa đất số 96, tờ bản đồ số 18, địa chỉ thửa đất: thuộc xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Theo GCNQSDĐ số K 239519, do UBND tỉnh Đắk Lắk cấp cho Công ty Cổ phần cà phê T vào ngày 16/5/1997. Thửa đất có tứ cận như sau: Phía Bắc giáp: Thửa số 93 (người nhận khoán ông Nguyễn Hữu T1); Phía Nam giáp: Thửa số 109 (người nhận khoán ông Nguyễn Thanh H); Phía Đông giáp: Thửa số 97 (người nhận khoán ông Nguyễn Văn G); Phía Tây giáp: Thửa số 95 (người nhận khoán ông Lê Quang D).

Buộc ông Hà Huy T phải trả cho Công ty cổ phần cà phê T toàn bộ cây trồng trên diện tích đất nhận khoán gồm: 950 cây cà phê vối trồng năm 1987; 93 cây muồng (trong đó: 75 cây trồng năm 1987, 18 cây trồng năm 2013); 50 cây tiêu trồng năm 2018.

Ông Hà Huy T phải tháo dỡ, di dời 15 cây sầu riêng DoNa ghép (10 cây trồng năm 2019, 05 cây trồng năm 2020) ra khỏi diện tích đất nhận khoán trước khi trả lại diện tích đất đã nhận khoán cho Công ty cổ phần cà phê T.

Công ty Cổ phần cà phê T có trách nhiệm trả lại giá trị vườn cây trên đất cho ông Hà Huy T với tổng số tiền là: 123.403.286 đồng (một trăm hai mươi ba triệu, bốn trăm lẻ ba nghìn, hai trăm tám mươi sáu đồng). Bao gồm: 49% trị giá cây cà phê là 53.818.562 đồng; 30% trị giá cây muồng đen trồng năm 1987 là 47.817.000 đồng;

49% trị giá cây muồng đen trồng năm 2013 là 689.724 đồng; 100% trị giá của cây tiêu là 21.078.000 đồng.

2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần cà phê T về việc buộc ông Hà Huy T trả trị giá phần 30% của cây muồng đen còn lại ông cho Công ty với số tiền là 8.413.020 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ vào đơn khởi kiện của nguyên đơn thì Hội đồng xét xử xác định đây là Tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản. Bị đơn ông Hà Huy T có địa chỉ tại xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Bị đơn ông Hà Huy T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần hai nhưng ông vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung: Qua xem xét Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 853/2011/HĐ-GK ngày 27 tháng 8 năm 2011 giữa Công ty TNHH MTV cà phê T với ông Hà Huy T thì thấy: Đây là hợp đồng song vụ có thời hạn, khi thực hiện việc giao kết hợp đồng các bên đều hoàn toàn tự nguyện và có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật; về nội dung cũng như hình thức của hợp đồng hai bên đã ký kết không vi phạm pháp luật nên có giá trị pháp lý, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Mặt khác, trong quá trình thực hiện hợp đồng giao khoán, ông Hà Huy T đều đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây theo đúng quy định của Công ty và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo Hợp đồng giao khoán vườn cây đã ký kết với Công ty kể từ lúc ký kết cho đến hết niên vụ cà phê 2017- 2018. Do đó, việc thỏa thuận giữa Công ty với ông Hà Huy T tại hợp đồng số 853/2011/HĐ-GK ngày 27 tháng 8 năm 2011 là căn cứ để giải quyết vụ án và là chứng cứ không cần chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện về việc buộc ông Hà Huy T phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T 8.059 kg (tám nghìn, không trăm năm mươi chín kilôgam) cà phê quả tươi còn nợ của 04 niên vụ (2018-2019; 2019-2020; 2020-2021; 2021-2022. Hội đồng xét xử thấy: theo điểm c khoản 2 Điều 3 của các Hợp đồng khoán gọn đã ký thì bên B (ông T) có nghĩa vụ “Thực hiện nộp sản lượng cho bên A theo quy định”. Năm 2019- 2020 hết thời hạn hợp đồng, Công ty đã có thông báo yêu cầu ông T cùng Công ty chấm dứt, thanh lý hợp đồng hoặc gia hạn hợp đồng nhưng ông T không hợp tác. Ông T vẫn trực tiếp quản lý vườn cây nhận khoán và hưởng lợi từ vườn cây từ năm 2019- 2020 cho đến nay. Do đó ông phải có nghĩa vụ nộp sản lượng cho Công ty tương đương với sản lượng niên vụ cuối (2018-2019) theo hợp đồng là 2.308kg cà phê quả tươi/1niên vụ.

Quá trình làm việc tại Tòa án, ông T không hợp tác làm việc. Căn cứ bảng kê chi tiết công nợ thể hiện từ niên vụ 2018-2019 đến niên vụ 2021-2022 ông T chưa đóng sản lượng cà phê quả tươi cho Công ty là 8.059kg, cụ thể: niên vụ năm 2018-2019 theo hợp đồng ông T phải nộp về cho Công ty 2.308kg cà phê quả tươi, ông đã nộp được 1.173kg quả tươi, còn nợ 1.135kg quả tươi; từ niên vụ 2019-2020 đến niên vụ 2021-2022 mặc dù đã hết hạn hợp đồng, Công ty đã thông báo nhiều lần để ông lên ký kết lại hợp đồng nhưng ông T vẫn không chịu hợp tác mà vẫn canh tác trên vườn cây, thu sản phẩm nên ông phải có nghĩa vụ nộp sản lượng cho Công ty tương đương với sản lượng niên vụ cuối (2018-2019) theo hợp đồng là 2.308kg cà phê quả tươi/1niên vụ. Như vậy, việc ông Hà Huy T không đóng sản lượng cho Công ty đã vi phạm Điều 3 của hợp đồng giao khoán đã ký kết. Do đó, HĐXX cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần cà phê T, buộc ông Hà Huy T phải trả cho Công ty cổ phần cà phê T 8.059kg cà phê quả tươi còn nợ của 04 niên vụ (2018- 2019, 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022). Giá cà phê tại thời điểm xét xử sơ thẩm (ngày 27/9/2022) là: (47.900đồng/kg : 4,55kg) x 8.059kg = 84.840.000 đồng (tám mươi bốn triệu, tám trăm bốn mươi nghìn đồng).

[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện về việc buộc ông Hà Huy T phải nộp tiền thuê đất phần 49% của ông cho Công ty Cổ phần cà phê T (truy thu tiền thuê đất từ năm 2006- 2010 và năm 2015-2017; trả tiền thuê đất từ năm 2018-2021) với tổng số tiền là:

6.754.245 đồng. Hội đồng xét xử thấy: tại điểm g khoản 2 Điều 3 của các Hợp đồng khoán gọn đã ký kết giữa Công ty với ông Hà Huy T quy định về nghĩa vụ của bên B thì bên B có nghĩa vụ “Nộp tiền thuê đất, thuế đất nông nghiệp cho nhà nước, theo tỷ lệ 51-49%, phần bên B 49% nộp vào tháng 11 trong năm thông qua bên A”. Tuy nhiên, trong thời gian từ năm 2015-2021 ông T chưa nộp tiền thuê đất cho Công ty để Công ty thực hiện nghĩa vụ nộp tiền thuê đất vào Ngân sách nhà nước theo quy định.

Và theo tài liệu chứng cứ do Công ty cung cấp thì trước khi ông T ký hợp đồng số 853/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 với Công ty, thì giữa ông T và Công ty trước đó có thực hiện với nhau theo hợp đồng hợp tác đầu tư. Cụ thể ông Hà Huy T với Công ty thực hiện theo hợp đồng hợp tác đầu tư và phân chia sản phẩm hợp đồng số 535/HĐHTĐT ký ngày 01/9/1998 thì từ năm 2006-2010 Cơ quan thuế đã miễn sai tiền thu thuế nên Cục thuế tỉnh Đắk Lắk đã có Thông báo số 43/CT-THNVDT ngày 08/01/2018 về việc truy thu tiền thuê đất đã miễn sai đối tượng theo kết luận Kiểm toán Nhà nước thì từ năm 2006-2010 (05 năm) tiền thuê đất được tính 1.042.067 đồng/1ha. Do Cục thuế tỉnh Đắk Lắk truy thu tiền thuê đất đối với ông và Công ty nên nay Công ty khởi kiện là có căn cứ. Đối với việc truy thu tiền thuê đất từ năm 2015-2017 và trả tiền thuê đất hằng năm từ năm 2018-2021 được thực hiện theo các Thông báo thuế của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk. Cụ thể: Thông báo số 802/TB-CT ngày 24/04/2018 về việc nộp tiền thuê đất, thuê mặt nước + Thông báo số 984/TB- CT ngày 07/05/2019 về việc nộp tiền thuê đất, thuê mặt nước thì: Năm 2015 tiền thuê đất được tính 699.849 đồng/1ha; từ năm 2016-2017 tiền thuê đất được tính 1.786.739 đồng/1ha/năm; từ năm 2018-2019 tiền thuê đất được tính 1.786.748 đồng/1ha/năm; Thông báo số 0695 ngày 23/3/2020 về việc nộp tiền thuê đất, thuê mặt nước năm 2020 thì năm 2020 tiền thuê đất được tính 1.785.408 đồng/1ha; Thông báo số 1252 ngày 29/4/2021 Về tiền thuê đất theo hình thức nộp hằng năm thì năm 2021 tiền thuê đất được tính 1.785.408 đồng/1ha.

 

 

 

 

 

Hà Huy T. Đơn vị: Đội 19/5, Thửa số 96, Tờ bản đồ số 18, xã

H

 

Thời gian

thu

Số tiền thuê đất thu

100%/ha

 

Diện tích

(Đvt: ha)

 

Phần 49%

 

Thành tiền

(Đvt: Đồng)

2006-2010

1,042,067

1.1063

49%

564,891

2015

699,849

1.1063

49%

379,379

2016

1,786,739

1.1063

49%

968,568

2017

1,786,739

1.1063

49%

968,568

2018

1,786,748

1.1063

49%

968,573

2019

1,786,748

1.1063

49%

968,573

 

Như vậy, căn cứ theo các Thông báo thuế của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk, căn cứ vào diện tích nhận khoán và diện tích bờ lô mà ông đã nhận khoán của Công ty thì ông T phải có trách nhiệm nộp tiền thuê đất phần 49% của ông cho Công ty tuy nhiên ông không nộp nên Công ty khởi kiện là có căn cứ chấp nhận. Cụ thể như sau:

 

 

2020

1,785,408

1.1063

49%

967,846

2021

1,785,408

1.1063

49%

967,846

TỔNG CỘNG:

6,754,245

Như vậy, tổng tiền thuê đất cần buộc ông Hà Huy T phải nộp phần 49% của ông cho Công ty là 6.754.245 đồng (sáu triệu, bảy trăm năm mươi bốn nghìn, hai trăm bốn mươi lăm đồng).

[2.3] Xét yêu cầu khởi kiện về việc buộc ông Hà Huy T phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T tiền khấu hao kênh mương hồ đập tưới cho vườn cà phê từ năm 2018 và năm 2019 với tổng số tiền 729.330 đồng, Hội đồng xét xử thấy:

Tại phương án khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên đã được UBND tỉnh Đắk Lắk phê duyệt theo Quyết định số 1399/QĐ-UBND ngày 08/6/2011 thể hiện việc thu sản lượng khoán 700kg cà phê nhân xô/ha là dựa vào năng suất, sản lượng giao khoán của phương án hợp đồng hợp tác đầu tư phân chia sản phẩm 51%- 49% từ năng suất 2.800kg nhân/ha, được phân chia Công ty phần 51% 1.428kg, người lao động 1.372kg. Về chi phí sản xuất trên 01ha Công ty phải chịu 51%, người lao động phải chịu 49%. Theo quyết định trên Công ty thực hiện khoán gọn các khoản chi phí 51% đáng lẽ Công ty phải chịu cho người lao động (bao gồm 11 mục chi phí trong đó có tiền khấu hao kênh mương), khi nộp sản lượng người lao động sẽ được trừ đi 700kg/ha tương đương 51% chi phí Công ty phải chịu. Như vậy, thay vì người lao động phải nộp 51% sản lượng về cho Công ty tương đương 1.428kg (tỷ lệ Công ty được hưởng) thì người lao động chỉ phải nộp 1.428kg – 713kg (phần khoán gọn)= 715kg (quy tròn 700kg cà phê nhân/ha). Do đó, ngoài phần 49% chi phí phải chịu người lao động phải chịu luôn phần 51% chi phí đầu tư của Công ty.

Chi phí khấu hao hồ đập kênh mương là 500.000đồng/ha/năm (chi phí 100% trên vườn cây). Như vậy, phần 51% của Công ty là 255.000đồng/ha/năm, còn lại phần 49% của người nhận khoán là 245.000đồng/ha/năm. Tuy nhiên, Công ty đã khoán và trừ sản lượng cho người lao động thì ngoài 245.000đồng (49%) người lao động phải đóng thêm khoản 255.000đồng (51%) phần của Công ty.

Như vậy việc thu tiền khấu hao kênh mương hồ đập được tính theo mức 500.000đồng/ha/năm thể hiện tại Bảng phương án khoán. Căn cứ vào diện tích ông Hà Huy T đã nhận khoán của Công ty để tính như sau:

- Năm 2018: tiền khấu hao kênh mương hồ đập là: 0.966ha x 500.000đồng/ha = 483.000đồng. Tuy nhiên, năm 2018 ông đã nộp được số tiền 236.670 đồng. Còn nợ số tiền 246.330 đồng.

- Năm 2019: tiền khấu hao kênh mương hồ đập 0.966ha x 500.000đồng/ha = 483.000đồng. Năm 2019 ông chưa nộp cho Công ty số tiền này.

Tổng số tiền khấu hao kênh mương hồ đập của năm 2018, năm 2019 mà ông Hà Huy T phải trả cho Công ty là 729.330 đồng. Do đó, Công ty khởi kiện đối với ông Hà Huy T là có cơ sở chấp nhận.

[2.4] Xét yêu cầu khởi kiện về việc buộc ông Hà Huy T phải đền bù thiệt hại cho Công ty do hành vi tự ý chặt phá chiếm đoạt 13 cây muồng đen trồng năm 1987 (mục đích chắn gió và che bóng cho cây cà phê) phần 70% của Công ty với số tiền 19.630.380 đồng. Hội đồng xét xử thấy:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 6 của Hợp đồng đã ký kết quy định về điều khoản cam kết chung thì “Công ty thống nhất quản lý cây muồng đen hiện có trên lô cà phê giao khoán, nếu vì lý do quá dày rợp, già cỗi phải cắt tỉa hoặc khi vườn cây thanh lý thì công ty sẽ tổ chức kiểm kê, lập thủ tục bán theo phương thức đấu thầu…”. Quá trình làm việc tại Tòa án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng của Tòa án để ông T đến Tòa án tham gia tố tụng theo nội dung khởi kiện của nguyên đơn nhưng ông không đến để làm việc do đó Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông về việc ông tự ý chặt hạ cây muồng của Công ty hay không. Vì vậy, Tòa án căn cứ vào hợp đồng mà ông và Công ty đã xác lập cùng các tài liệu chứng cứ, lời khai do Công ty cung cấp để xem xét và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty. Do Tòa án không tiến hành thẩm định tại chỗ được nên dựa vào số lượng cây do Công ty cung cấp đã xác định thiệt hại do hành vi tự ý chặt phá 13 cây muồng trồng năm 1987 của ông T theo kết quả định giá ngày 18/8/2022 có giá 28.043.400 đồng.

Tại khoản 1 Điều 6 của hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê và tại mục 7.2.1.2 của Phương án khoán gọn vườn cây cà phê quy định:

- Đối với cây muồng đen trồng trên lô cà phê từ năm 1993 trở về sau này khi cắt tỉa hoặc thanh lý thì phân chia theo tỷ lệ 51%-49%;

- Đối với cây muồng đen trồng trên lô cà phê từ năm 1992 trở về trước thì chủ hộ được hưởng 30% tổng giá trị, công ty hưởng 70% tổng giá trị.

Như vậy, đối với cây muồng đen được trồng năm 1987 nhằm mục đích: làm cây chắn gió và che bóng cho cây cà phê theo quy trình kỹ thuật. Hiện đã bị ông T tự ý cắt hạ 13 cây (Công ty có lập biên bản) với tổng khối lượng gỗ là 6,07m3, có tổng trị giá là 28.043.400 đồng và căn cứ vào khoản 1 Điều 6 của Hợp đồng để xem xét chia theo tỷ lệ 70%-30%. Do đó, phần 70% của Công ty là 19.630.380 đồng và phần 30% của ông Tư là 8.413.020 đồng.

Căn cứ khoản 1 Điều 6 của Hợp đồng số 853/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 và tại mục 7.2.1.2 của Bảng phương án khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên đã được UBND tỉnh phê duyệt theo Quyết định số 1399/QĐ-UBND ngày 08/6/2011 thì Hội đồng xét xử cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty về việc buộc ông Hà Huy T phải bồi thường cho Công ty Cổ phần cà phê T thiệt hại do hành vi tự ý chặt phá cây muồng (phần 70% của Công ty) với số tiền là 19.630.380 đồng (mười chín triệu, sáu trăm ba mươi nghìn, ba trăm tám mươi đồng).

Đối với phần 30% còn lại là trị giá của 13 cây muồng đen đã bị ông T tự ý chặt, thiệt hại với số tiền 8.413.020 đồng (30% x 28.043.400 đồng) thì tại phiên tòa Công ty không yêu cầu ông phải bồi thường nữa và không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với số tiền này. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với số tiền 8.413.020 đồng.

[2.5] Xét yêu cầu khởi kiện về việc chấm dứt hợp đồng khoán gọn số 853/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 giữa ông Hà Huy T với Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty Cổ phần cà phê T), Hội đồng xét xử thấy:

Tại điểm f khoản 1 Điều 2 của Hợp đồng quy định về quyền và nghĩa vụ của bên A (Công ty TNHH MTV cà phê T) thì bên A có quyền “Hủy bỏ hợp đồng giao khoán, thu hồi diện tích giao khoán khi bên nhận khoán vi phạm hợp đồng…”. Và tại khoản 5 Điều 6 của Hợp đồng quy định về điều khoản cam kết chung có nêu “Trong quá trình thực hiện hợp đồng bên B không hoàn thành chỉ tiêu giao nộp sản phẩm cà phê theo định mức hàng năm, thì bên A có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi nợ và đơn phương chấm dứt hợp đồng giao khoán, thu hồi vườn cây cà phê giao khoán, tiến hành giao cho người khác hợp đồng”.

Như vậy, việc ông T không đóng sản lượng cho Công ty, không nộp tiền thuê đất phần 49% cho Công ty, không trả tiền khấu hao kênh mương hồ đập cho Công ty theo thỏa thuận và ông tự ý chặt hạ cây muồng đen của Công ty là vi phạm hợp đồng khoán gọn đã ký kết, đây là lỗi hoàn toàn thuộc về ông T nên Công ty có quyền chấm dứt hợp đồng giao khoán, thu hồi diện tích giao khoán. Căn cứ theo quy định tại Điều 511 của Bộ luật dân sự 2005 thì Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện chấm dứt hợp đồng, buộc ông T phải trả lại toàn bộ diện tích đất đã nhận khoán và diện tích đất bờ lô là đúng quy định của pháp luật. Buộc ông Hà Huy T trả lại cho Công ty Cổ phần cà phê T diện tích cà phê giao khoán 9.660m2, diện tích bờ lô 1.403m2. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 19/5, thửa đất số 96, tờ bản đồ số 18. Địa chỉ thửa đất: Thuộc xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Theo GCNQSDĐ số K 239519, do UBND tỉnh Đắk Lắk cấp cho Công ty Cổ phần cà phê T vào ngày 16/5/1997.

- Về giải quyết hậu quả khi chấm dứt hợp đồng giao khoán:

Tại biên bản định giá tài sản ngày 18/8/2022 thì tổng giá trị tài sản trên đất (hiện có) {gồm: cây cà phê, cây trồng khác (cây muồng đen, cây tiêu, cây sầu riêng)} có trị giá là: 305.245.400 đồng (ba trăm lẻ năm triệu, hai trăm bốn mươi lăm nghìn, bốn trăm đồng); tổng giá trị của cây muồng đen đã bị ông Hà Huy T tự ý chặt hạ (hiện không còn) theo xác định giá có trị giá là 28.043.400 đồng (hai mươi tám triệu, không trăm bốn mươi ba nghìn, bốn trăm đồng).

Theo quy định tại Điều 1 của Hợp đồng có nêu “Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%”. Mặt khác, hợp đồng giao khoán giữa ông T với Công ty hai bên không thỏa thuận về mức độ khấu hao của tài sản. Và tại khoản 1 Điều 6 của hợp đồng, khi chấm dứt hợp đồng giữa các bên thì Công ty có trách nhiệm trả lại cho ông T phần 70% trị giá cây muồng đen (đối với cây muồng đen trồng từ năm 1992 trở về trước) và 49% đối với cây muồng đen trồng từ năm 1993 trở về sau này). Vì vậy, khi buộc ông T trả lại vườn cây trên diện tích đất nhận khoán thì cần buộc Công ty Cổ phần cà phê T có trách nhiệm trả lại giá trị vườn cây trên đất (cây cà phê) phần 49% cho ông T, đối với cây muồng được trồng năm 1987 hiện còn thì chia theo tỷ lệ 30%-70%, đối với cây muồng đen trồng năm 2013 chia theo tỷ lệ 49%- 51%. Riêng đối với cây muồng đen trồng năm 1987 mà ông T đã tự ý chặt đã được nêu tại mục [2.4] nên không đề cập.

Đối với các cây trồng khác (gồm cây tiêu, cây sầu riêng) thì các tài sản này do ông T tự trồng trên diện tích đất nhận khoán (ngoài cây cà phê và cây muồng có trên đất theo hợp đồng) theo biên bản định giá ngày 18/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản, thì thấy: 50 cây tiêu trồng năm 2018; 15 cây sầu riêng DoNa ghép (10 cây trồng năm 2019, 05 cây trồng năm 2020), có tổng trị giá là 34.614.000 đồng. Đối với các cây trồng này căn cứ vào hợp đồng thì Công ty cho phép ông được phép trồng xen cây tiêu. Vì vậy khi chấm dứt hợp đồng ông T trả lại vườn cây nhận khoán cho Công ty thì Công ty phải trả lại 100% trị giá của cây tiêu trồng năm 2018 trên đất cho ông T. Đối với 15 cây sầu riêng DoNa ghép (10 cây trồng năm 2019, 05 cây trồng năm 2020) thì thấy: hợp đồng số 853/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 giữa ông T với Công ty hết thời hạn vào niên vụ 2018-2019. Khi hết hạn hợp đồng Công ty đã nhiều lần yêu cầu ông đến Công ty để thanh lý, chấm dứt hợp đồng hoặc gia hạn hợp đồng nhưng ông không hợp tác mà vẫn quản lý hưởng lợi vườn cây và tự ý trồng cây trồng khác trên đất không được sự đồng ý của Công ty. Tại phiên tòa, Công ty không đồng ý nhận lại những tài sản này. Do vậy, Công ty không phải hoàn trả giá trị đối với cây trồng này, buộc ông Hà Huy T phải tự di dời, nhổ bỏ đối với 15 cây sầu riêng DoNa ghép (10 cây trồng năm 2019, 05 cây trồng năm 2020).

Như vậy, ông Hà Huy T phải trả lại cho Công ty Cổ phần cà phê T toàn bộ tài sản là cây trồng trên diện tích đất mà ông đã nhận khoán của Công ty, bao gồm: 950 cây cà phê vối trồng năm 1987; 93 cây muồng (trong đó: 75 cây trồng năm 1987, 18 cây trồng năm 2013); 50 cây tiêu trồng năm 2018;

Ông Hà Huy T phải tự di dời, nhổ bỏ đối với 15 cây sầu riêng DoNa ghép (10 cây trồng năm 2019, 05 cây trồng năm 2020).

Công ty Cổ phần cà phê T có trách nhiệm trả lại giá trị vườn cây trên đất cho ông Hà Huy T với tổng số tiền là: 123.403.286 đồng (một trăm hai mươi ba triệu, bốn trăm lẻ ba nghìn, hai trăm tám mươi sáu đồng). Bao gồm: 49% trị giá cây cà phê là 53.818.562 đồng; 30% trị giá cây muồng đen trồng năm 1987 là 47.817.000 đồng;

49% trị giá cây muồng đen trồng năm 2013 là 689.724 đồng; 100% trị giá của cây tiêu là 21.078.000 đồng.

[3] Về các chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, chi phí định giá tài sản là 5.200.000 đồng, số tiền này nguyên đơn đã nộp. Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nên căn cứ Điều 157, Điều 165 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì bị đơn ông Hà Huy T phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, chi phí định giá tài sản. Vì vậy, cần buộc ông Hà Huy T phải thanh toán lại cho nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê T số tiền 5.200.000 đồng, là đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn ông Hà Huy T phải chịu 300.000 đồng án phí không có giá ngạch và 5.598.000 đồng án phí có giá ngạch, theo mức: (84.840.000 đồng + 6.754.245 đồng + 729.330 đồng + 19.630.380 đồng) x 5% = 5.598.000 đồng. Tổng cộng ông Hà Huy T phải chịu 5.898.000 đồng (năm triệu, tám trăm chín mươi tám nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho Công ty Cổ phần cà phê T số tiền 2.776.000 đồng tạm ứng án phí mà Công ty đã nộp tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc theo biên lai thu số AA/2021/0016119 ngày 16/5/2022.

[5] Xét quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa là có căn cứ và đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503, 506, 507, 508, 510, 511 của Bộ luật dân sự năm 2005; điểm c khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 7, 8, 9, 10, 12 của Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ; Thông tư số 102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ; Luật đất đai năm 2003.

- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê T:

1.1 Buộc ông Hà Huy T phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T 8.059kg (tám nghìn, không trăm năm mươi chín kilôgam) cà phê quả tươi còn nợ của 04 niên vụ (2018-2019, 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022). Quy ra trị giá bằng tiền là 84.840.000 đồng (tám mươi bốn triệu, tám trăm bốn mươi nghìn đồng).

1.2 Buộc ông Hà Huy T phải nộp tiền thuê đất phần 49% của ông cho Công ty Cổ phần cà phê T (truy thu tiền thuê đất từ năm 2006-2010 và năm 2015-2017; tiền thuê đất từ năm 2018-2021) với tổng số tiền là: 6.754.245 đồng (sáu triệu, bảy trăm năm mươi bốn nghìn, hai trăm bốn mươi lăm đồng). Cụ thể: Truy thu tiền thuê đất từ năm 2006-2010 là 564.891 đồng và từ năm 2015-2017 là 2.316.515 đồng; trả tiền thuê đất các năm: năm 2018 là 968.573 đồng, năm 2019 là 968.573 đồng, năm 2020 là 967.846 đồng, năm 2021 là 967.846 đồng.

1.3 Buộc ông Hà Huy T phải trả tiền khấu hao kênh mương hồ đập cho Công ty Cổ phần cà phê T các năm 2018, 2019 với số tiền là 729.330 đồng (bảy trăm hai mươi chín nghìn, ba trăm ba mươi đồng).

1.4 Buộc ông Hà Huy T phải bồi thường cho Công ty Cổ phần cà phê T thiệt hại do hành vi tự ý chặt phá 13 cây muồng đen trồng năm 1987 phần 70% của Công ty với số tiền 19.630.380 đồng (mười chín triệu triệu, sáu trăm ba mươi nghìn, ba trăm tám mươi đồng).

1.5 Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 853/2011/HĐ-KG ngày 27/8/2011 đã ký kết giữa Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty Cổ phần cà phê T) với ông Hà Huy T.

Buộc ông Hà Huy T có nghĩa vụ trả lại toàn bộ diện tích đất đã nhận khoán, diện tích đất bờ lô và tài sản trên đất đã nhận khoán theo hợp đồng đã ký kết, cụ thể: Diện tích cà phê giao khoán 9.660m2, diện tích bờ lô 1.403m2. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 19/5, thửa đất số 96, tờ bản đồ số 18, địa chỉ thửa đất: thuộc xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Theo GCNQSDĐ số K 239519, do UBND tỉnh Đắk Lắk cấp cho Công ty Cổ phần cà phê T vào ngày 16/5/1997. Thửa đất có tứ cận như sau: Phía Bắc giáp: Thửa số 93 (người nhận khoán ông Nguyễn Hữu T1); Phía Nam giáp: Thửa số 109 (người nhận khoán ông Nguyễn Thanh H); Phía Đông giáp: Thửa số 97 (người nhận khoán ông Nguyễn Văn G); Phía Tây giáp: Thửa số 95 (người nhận khoán ông Lê Quang D).

Buộc ông Hà Huy T phải trả lại cho Công ty Cổ phần cà phê T toàn bộ tài sản là cây trồng trên diện tích đất mà ông đã nhận khoán của Công ty, bao gồm: 950 cây cà phê vối trồng năm 1987; 93 cây muồng (trong đó: 75 cây trồng năm 1987, 18 cây trồng năm 2013); 50 cây tiêu trồng năm 2018.

Buộc ông Hà Huy T phải tự di dời, nhổ bỏ đối với 15 cây sầu riêng DoNa ghép (10 cây trồng năm 2019, 05 cây trồng năm 2020).

Công ty Cổ phần cà phê T có trách nhiệm trả lại giá trị vườn cây trên đất cho ông Hà Huy T với tổng số tiền là: 123.403.286 đồng (một trăm hai mươi ba triệu, bốn trăm lẻ ba nghìn, hai trăm tám mươi sáu đồng). Bao gồm: 49% trị giá cây cà phê là 53.818.562 đồng; 30% trị giá cây muồng đen trồng năm 1987 là 47.817.000 đồng;

49% trị giá cây muồng đen trồng năm 2013 là 689.724 đồng; 100% trị giá của cây tiêu là 21.078.000 đồng.

2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần cà phê T về việc buộc ông Hà Huy T trả trị giá phần 30% cây muồng đen còn lại của ông cho Công ty với số tiền là 8.413.020 đồng.

3. Về chi phí tố tụng: Buộc ông Hà Huy T phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê T 5.200.000 đồng tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, chi phí định giá tài sản.

Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

5. Về án phí:

Ông Hà Huy T phải chịu 300.000 đồng án phí không có giá ngạch và 5.598.000 đồng án phí có giá ngạch, theo mức: (84.840.000 đồng + 6.754.245 đồng + 729.330 đồng + 19.630.380 đồng) x 5% = 5.598.000 đồng. Tổng cộng ông Hà Huy T phải chịu 5.898.000 đồng (năm triệu, tám trăm chín mươi tám nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho Công ty Cổ phần cà phê T số tiền 2.776.000 đồng tạm ứng án phí mà Công ty đã nộp tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc theo biên lai thu số AA/2021/0016119 ngày 16/5/2022.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án, hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản số 85/2022/DS-ST

Số hiệu:85/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về