TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 102/2022/DS-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GIAO KHOÁN VÀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 9 năm 2022, tại hội trường Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 295/2022/TLST-DS ngày 04/7/2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 167/2022/QĐXXST-DS ngày 06 tháng 9 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa ngày 22 tháng 9 năm 2022, giữa:
1. Nguyên đơn: Công ty Cổ phần cà phê TL; địa chỉ: xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Hoàng P, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Phạm Đình B, sinh năm 1957; địa chỉ: đường D, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (có mặt).
2. Bị đơn: Bà Hoàng Thị N; địa chỉ: xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn ông Phạm Đình B trình bày:
Vào ngày 25/8/2011 bà Hoàng Thị N có đơn xin hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên gửi Công ty TNHH một thành viên cà phê TL (Nay là Công ty Cổ phần cà phê TL).
Ngày 27/8/2011, giữa bà N và Công ty đã ký Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 34/2011/HĐ-GK. Theo hợp đồng thì bà N nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm 1987 của Công ty có diện tích 9.350m2 và diện tích bờ lộ 1.358m2. Thửa đất số 24, tờ bản đồ số 07, thuộc đội 12. Địa chỉ thửa đất: thuộc xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán 43.387.822 đồng; Giá trị vườn cây còn lại 28.169.261 đồng. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%. Thời hạn giao khoán là 03 năm, sau đó gia hạn thêm 05 năm (từ ngày ký kết hợp đồng đến niên vụ 2018 -2019).
Kể từ khi nhận khoán vườn cây cho đến niên vụ cà phê 2017-2018 bà N đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây cũng như thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo hợp đồng. Tuy nhiên, từ niên vụ 2018 - 2019 đến niên vụ 2021 -2022, bà N đã không thực hiện nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cà phê quả tươi cho công ty theo đúng cam kết trong Hợp đồng. Ngoài ra theo thông báo của cục thuế tỉnh Đắk Lắk số tiền thuê đất bà N phải nộp về Công ty là 5.986.125 đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng bà N còn tự ý chặt hạ, khai thác 35 cây muồng đen trồng năm 1987. Mặc dù Công ty đã động viên, thông báo nhiều lần nhưng bà N vẫn cố tình chống đối, không hợp tác. Việc làm này của bà N là vi phạm hợp đồng, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp và tài sản của Công ty. Vì vậy, Công ty làm đơn khởi kiện bà Hoàng Thị N, đề nghị Toà án giải quyết:
- Tuyên Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 34/2011/HĐ-GK. Buộc Bà Hoàng Thị N phải trả lại đất, vườn cây cà phê cho Công ty Cổ phần cà phê TL với diện tích 9.350m2 và 1.358m2 diện tích bờ lô, thửa đất số 24, tờ bản đồ số 07, thuộc đội 12. Vị trí tiếp giáp cụ thể: Phía Bắc giáp thửa số 17 (lô nhận khoán ông Mai Xuân T); Phía Nam giáp thửa số 32 (lô nhận khoán ông Nguyễn Lệ B); Phía Đông giáp thửa số 23 (lô nhận khoán ông Nguyễn Văn H); Phía Tây giáp thửa số 25 (lô nhận khoản ông Nguyễn Văn H).
- Buộc Bà Hoàng Thị N phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê TL 7.370kg cà phê quả tươi còn nợ của 04 niên vụ (2018-2019; 2019-2020; 2020-2021; 2021- 2022), Giá tạm tính là 65.961.500 đồng.
- Buộc Bà Hoàng Thị N phải nộp tiền thuê đất về công ty phần 49% là 5.986.125 đồng.
- Buộc bà Hoàng Thị N phải bồi thường cho Công ty Cổ phần cà phê TL 100% giá trị 35 cây muồng đen trồng năm 1987 bị chặt hạ.
Tại phiên tòa, nguyên đơn chỉ yêu cầu bà N bồi thường 70% giá trị cây muồng đã chặt hạ, nguyên đơn xin rút 30% giá trị cây muồng bị chặt hạ không yêu cầu bà N phải bồi thường.
Theo kết quả định giá thì 35 cây muồng đen trồng năm 1987 có giá là 134.534.400 đồng. Do đó, tại phiên tòa Công ty yêu cầu bà N phải bồi thường 70% giá trị 35 cây muồng đen trồng năm 1987 bị chặt hạ là 94.174.080 đồng.
* Bị đơn bà Hoàng Thị N: Trong quá trình giải quyết vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng cố tình vắng mặt không tham gia tố tụng nên Tòa án không ghi được lời khai.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Đối với bị đơn mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tham gia phiên tòa nhưng đều vắng mặt không có lý do là vi phạm quy định tại các Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều 227, Điều 228, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Các Điều 388, 390, 392, khoản 1, 3, 7, 8 Điều 409, 412, 414, 501, 502, 503, 506 của Bộ luật dân sự năm 2005; điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 7, 8, 9, 10, 12 Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ; Thông tư số 102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn; Luật đất đai năm 2003.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê TL.
- Buộc bà Hoàng Thị N phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê TL 7.370kg cà phê quả tươi, quy ra giá trị bằng tiền là 76.777.582 đồng.
- Buộc bà Hoàng Thị N có nghĩa vụ nộp tiền thuê đất cho Công ty Cổ phần cà phê TL phần 49% là 5.986.125 đồng.
- Buộc bà Hoàng Thị N phải bồi thường cho Công ty Cổ phần cà phê TL 70% giá trị 35 cây muồng đen trồng năm 1987 bị chặt hạ là 94.174.080 đồng.
- Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần cà phê TL đối với yêu cầu bồi thường 30% giá trị 35 cây muồng đen trồng năm 1987 bị chặt hạ.
- Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 34/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 đã ký kết giữa Công ty TNHH MTV cà phê TL và bà Hoàng Thị N.
Bà Hoàng Thị N có nghĩa vụ trả lại toàn bộ diện tích đất và các loại cây trồng trên đất đã nhận khoán diện tích 9.350m2 và diện tích bờ lô 1.358m2, thửa đất số 24, tờ bản đồ số 07, thuộc đội 12.
Công ty Cổ phần cà phê TL có trách nhiệm trả lại giá trị vườn cây cho bà Hoàng Thị N số tiền 49.712.313 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
- Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ vào đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung của nguyên đơn thì Hội đồng xét xử xác định đây là “Tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản” được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn có địa chỉ tại xã H, huyện K nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Bị đơn bà Hoàng Thị N mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về nội dung: Qua xem xét Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên ngày 27/8/2011, giữa Công ty TNHH MTV cà phê TL với hộ nhận khoán bà Hoàng Thị N số 34/2011/HĐ-GK thì thấy: Đây là hợp đồng song vụ có thời hạn, khi thực hiện việc giao kết hợp đồng các bên đều hoàn toàn tự nguyện và có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật, về nội dung cũng như hình thức của hợp đồng hai bên đã ký kết không vi phạm pháp luật nên có giá trị pháp lý, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Mặt khác, trong quá trình thực hiện hợp đồng giao khoán, bà Hoàng Thị N đều đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây theo đúng quy định của Công ty và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo Hợp đồng giao khoán vườn cây đã ký kết với Công ty kể từ khi ký kết cho đến hết niên vụ cà phê 2017-2018 và các bên không có tranh chấp gì. Do đó, xác định đây là chứng cứ không cần chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê TL:
[2.1] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bà Hoàng Thị N phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê TL 7.370kg cà phê quả tươi còn nợ của 04 niên vụ (2018-2019; 2019-2020; 2020-2021; 2021-2022), thì thấy:
Theo điểm c khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng khoán gọn đã ký thì bên B (bà N) có nghĩa vụ “Thực hiện nộp sản lượng cho bên A theo quy định”. Quá trình giải quyết vụ án bà N không hợp tác làm việc. Căn cứ bảng kê chi tiết công nợ thể hiện từ niên vụ 2018-2019 đến niên vụ 2021-2022 bà N chưa đóng sản lượng cà phê quả tươi cho Công ty là 7.370kg, cụ thể: niên vụ năm 2018-2019 theo hợp đồng bà N phải nộp về cho Công ty 2.233kg cà phê quả tươi, bà N đã nộp được 1.562kg quả tươi, còn nợ 671kg quả tươi; từ niên vụ 2019-2020 đến niên vụ 2021-2022 mặc dù đã hết hạn hợp đồng, Công ty đã thông báo nhiều lần để bà lên ký kết lại hợp đồng nhưng bà N vẫn không chịu hợp tác mà vẫn canh tác trên vườn cây, thu sản phẩm nên bà N phải có nghĩa vụ nộp sản lượng cho Công ty tương đương với sản lượng niên vụ cuối (2018- 2019) theo hợp đồng là 2.233kg cà phê quả tươi/1niên vụ. Như vậy, việc bà N không đóng sản lượng cho Công ty đã vi phạm Điều 3 của Hợp đồng. Do đó, HĐXX cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà Hoàng Thị N phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê TL 7.370kg cà phê quả tươi còn nợ của 04 niên vụ. Giá cà phê tại thời điểm xét xử sơ thẩm là (47.400đồng/kg : 4,55kg) x 7.370kg = 76.777.582 đồng.
[2.2] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bà Hoàng Thị N phải trả tiền thuê đất cho Công ty (truy thu từ năm 2006 đến năm 2010, tiền thuê đất năm 2015 đến năm 2017) và tiền thuê đất 04 năm 2018, 2019, 2020, 2021 phần 49% là 5.986.125 đồng, thì thấy:
Tại điểm g khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê đã ký kết giữa Công ty với bà N quy định về nghĩa vụ của bên B thì bên B có nghĩa vụ “Nộp tiền thuê đất, thuế đất nông nghiệp cho nhà nước, theo tỷ lệ 51-49%, phần bên B 49% nộp vào tháng 11 trong năm thông qua bên A”. Tuy nhiên, trong thời gian từ năm 2006 đến năm 2010, từ năm 2015 đến năm 2017 và 04 năm 2018, 2019, 2020, 2021 bà N chưa nộp tiền thuê đất cho Công ty để Công ty thực hiện nghĩa vụ nộp tiền thuê đất vào Ngân sách nhà nước theo quy định. Theo tài liệu chứng cứ do Công ty cung cấp thì: Tại thông báo số 43/CT-THNVDT ngày 08/01/2018 của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk về việc truy thu tiền thuê đất đã miễn sai đối tượng theo kết luận Kiểm toán Nhà nước thì từ năm 2006-2010 (05 năm) tiền thuê đất được tính 1.042.067 đồng/1ha; Thông báo số 802/TB-CT ngày 24/04/2018 của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk về việc nộp tiền thuê đất, thuê mặt nước + Thông báo số 984/TB- CT ngày 07/05/2019 của Cục Thuế tỉnh Đắk Lắk về việc nộp tiền thuê đất, thuê mặt nước thì: năm 2015 tiền thuê đất được tính 699.849 đồng/1ha, từ năm 2016 đến 2017 tiền thuê đất được tính 1.786.739 đồng/1ha/năm, từ năm 2018 đến 2019 tiền thuê đất được tính 1.786.748 đồng/1ha/năm; Thông báo số 0695 ngày 23/3/2020 về việc nộp tiền thuê đất, thuê mặt nước năm 2020 của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk thì năm 2020 tiền thuê đất được tính 1.785.408 đồng/1ha; Thông báo số 1252 ngày 29/4/2021 về tiền thuê đất theo hình thức nộp hằng năm của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk thì năm 2021 tiền thuê đất được tính 1.785.408 đồng/1ha. Như vậy, căn cứ theo các thông báo thuế nêu trên, tiền thuê đất bà N phải có nghĩa vụ nộp căn cứ vào diện tích nhận khoán và diện tích bờ lô mà bà đã nhận khoán để nộp tiền thuê đất và Công ty khởi kiện yêu cầu bà N phải nộp tiền thuê đất cho Công ty phần 49% số tiền 5.986.125 đồng, là có căn cứ chấp nhận.
[2.3] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chấp dứt hợp đồng khoán gọn vườn cây số 34/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 và trả lại vườn cây nhận khoán theo hợp đồng, thì thấy:
Tại điểm f khoản 1 Điều 2 của Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê quy định về quyền và nghĩa vụ của bên A (Công ty TNHH MTV cà phê TL) thì bên A có quyền “Hủy bỏ hợp đồng giao khoán, thu hồi diện tích giao khoán khi bên nhận khoán vi phạm hợp đồng…”. Tại khoản 5 Điều 6 của Hợp đồng giao khoán quy định về điều khoản cam kết chung thì “Trong quá trình thực hiện hợp đồng bên B không hoàn thành chỉ tiêu giao nộp sản phẩm cà phê theo định mức hàng năm, thì bên A có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi nợ và đơn phương chấm dứt hợp đồng giao khoán, thu hồi vườn cây cà phê giao khoán, tiến hành giao cho người khác hợp đồng”. Trong quá trình thực hiện hợp đồng bà Hoàng Thị N đã vi phạm hợp đồng trong việc giao nộp sản phẩm từ niên vụ 2018-2019 đến niên vụ 2021-2022, vi phạm việc trả tiền thuê đất hàng năm, hợp đồng đã chấm dứt từ năm 2018 mặc dù Công ty đã thông báo để bà N lên ký kết lại hợp đồng nhưng bà không hợp tác. Như vậy, bà N đã vi phạm Hợp đồng khoán gọn đã ký kết. Do đó, HĐXX cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên chấm dứt hợp đồng khoán gọn vườn cây số 34/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 giữa Công ty TNHH MTV cà phê TL và bà Hoàng Thị N.
- Về giải quyết hậu quả khi chấm dứt hợp đồng giao khoán:
Theo kết quả định giá tài sản: Trị giá vườn cây cà phê trên đất là 101.453.700 đồng. Theo quy định tại Điều 1 của Hợp đồng được ký kết giữa các bên thì “Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%”. Mặt khác, trong hợp đồng hai bên không thỏa thuận về mức độ khấu hao tài sản. Như vậy, khi chấm dứt hợp đồng thì Công ty phải có nghĩa vụ trả lại phần 49% giá trị vườn cây cà phê cho bà N số tiền là 101.453.700 đồng x 49% = 49.712.313 đồng.
[2.4] Đối với yêu cầu khởi kiện và khởi kiện bổ sung của nguyên đơn về việc bà Hoàng Thị N phải bồi thường thiệt hại do hành vi tự ý chặt hạ cây muồng đen, thì thấy:
Tại khoản 1 Điều 6 của Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê quy định về điều khoản cam kết chung thì “Công ty thống nhất quản lý cây muồng đen hiện có trên lô cà phê giao khoán, nếu vì lý do quá dày rợp, già cỗi phải cắt tỉa hoặc khi vườn cây thanh lý thì công ty sẽ tổ chức kiểm kê, lập thủ tục bán theo phương thức đấu thầu…”. Như vậy, việc bà N tự ý cắt hạ đối với cây muồng đen trên diện tích đất nhận khoán là vi phạm hợp đồng đã ký kết. Quá trình giải quyết Tòa án không làm việc được với bị đơn, do bị đơn không hợp tác nên căn cứ vào số lượng Công ty cung cấp thì có 35 cây muồng đen trồng năm 1987 bị chặt hạ. Theo kết quả định giá có giá 134.534.400 đồng.
Theo khoản 1 Điều 6 của hợp đồng và tại mục 7.2.1.2 của Phương án khoán gọn vườn cây cà phê quy định: Đối với cây muồng đen trồng trên lô cà phê từ năm 1992 trở về trước khi cắt tỉa hoặc thanh lý thì phân chia theo tỷ lệ 70% (Công ty)- 30% (chủ hộ). Như vậy, đối với 35 cây muồng đen trồng năm 1987 có giá 134.534.400 đồng, chia theo tỷ lệ 70%-30%, buộc bà N phải bồi thường cho Công ty phần 70% là 94.174.080 đồng.
Tại phiên tòa, nguyên đơn xin rút một phần đơn khởi kiện đối với 30% giá trị 35 cây muồng đen trồng năm 1987 bị chặt hạ, không yêu cầu bà N phải bồi thường. Xét việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tự nguyện, đúng pháp luật nên cần chấp nhận.
[3] Xét quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa là có căn cứ và đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.
[4] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn bà Hoàng Thị N phải chịu 6.750.000 đồng tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản. Nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê TL (đã nộp tạm ứng) được nhận lại số tiền 6.750.000 đồng sau khi thu được của bà Hoàng Thị N.
[5] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đươc chấp nhận nên bị đơn bà Hoàng Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự không có giá ngạch và (76.777.582 đồng + 5.986.125 đồng + 94.174.080 đồng) = 176.937.787 đồng x 5% = 8.846.889 đồng (làm tròn: 8.847.000 đồng) án phí dân sự có giá ngạch. Tổng cộng 9.147.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 157, Điều 165, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng Điều 388, 390, 392, khoản 1, 3, 7, 8 Điều 409, 412, 414, 501, 502, 503, 506 của Bộ luật dân sự năm 2005; điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015;
- Áp dụng Điều 7, 8, 9, 10, 12 Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ;
- Áp dụng Thông tư số 102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn;
- Áp dụng Luật đất đai năm 2003;
- Áp dụng Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê TL.
- Buộc bà Hoàng Thị N phải trả cho Công ty Cổ phần cà phê TL 7.370kg cà phê quả tươi còn nợ của 04 niên vụ (2018-2019; 2019-2020; 2020-2021; 2021- 2022), quy ra giá trị bằng tiền là 76.777.582 đồng (bảy mươi sáu triệu, bảy trăm bảy mươi bảy nghìn, năm trăm tám mươi hai đồng).
- Buộc bà Hoàng Thị N có nghĩa vụ nộp tiền thuê đất cho Công ty Cổ phần cà phê TL (truy thu từ năm 2006 đến năm 2010, tiền thuê đất từ năm 2015 đến năm 2017) và tiền thuê đất 04 năm 2018, 2019, 2020, 2021 phần 49% là 5.986.125 đồng (năm triệu, chín trăm tám mươi sáu nghìn, một trăm hai mươi lăm đồng).
- Buộc bà Hoàng Thị N phải bồi thường cho Công ty Cổ phần cà phê TL 70% giá trị 35 cây muồng đen trồng năm 1987 bị chặt hạ là 94.174.080 đồng (chín mươi bốn triệu, một trăm bảy mươi bốn nghìn, không trăm tám mươi đồng).
- Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần cà phê TL đối với yêu cầu bồi thường 30% giá trị 35 cây muồng đen trồng năm 1987 bị chặt hạ. Nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê TL được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.
- Chấm dứt Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 34/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 đã ký kết giữa Công ty TNHH MTV cà phê TL và bà Hoàng Thị N.
Bà Hoàng Thị N có nghĩa vụ trả lại toàn bộ diện tích đất và các loại cây trồng trên đất đã nhận khoán diện tích 9.350m2 và diện tích bờ lô 1.358m2, thửa đất số 24, tờ bản đồ số 07, thuộc đội 12. Vị trí tiếp giáp cụ thể: Phía Bắc giáp thửa số 17 (lô nhận khoán ông Mai Xuân T); Phía Nam giáp thửa số 32 (lô nhận khoán ông Nguyễn Lệ B); Phía Đông giáp thửa số 23 (lô nhận khoán ông Nguyễn Văn H); Phía Tây giáp thửa số 25 (lô nhận khoản ông Nguyễn Văn H).
Công ty Cổ phần cà phê TL có trách nhiệm trả lại giá trị vườn cây cho bà Hoàng Thị N số tiền 49.712.313 đồng (bốn mươi chín triệu, bảy trăm mười hai nghìn, ba trăm mười ba đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Về chi phí tố tụng: Bị đơn bà Hoàng Thị N phải chịu 6.750.000 đồng (sáu triệu, bảy trăm năm mươi nghìn đồng) tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản. Nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê TL (đã nộp tạm ứng) được nhận lại số tiền 6.750.000 đồng (sáu triệu, bảy trăm năm mươi nghìn) sau khi thu được của bà Hoàng Thị N.
3. Về án phí: Bị đơn bà Hoàng Thị N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự không có giá ngạch và 8.847.000 đồng (tám triệu, tám trăm bốn mươi bảy nghìn đồng) án phí dân sự có giá ngạch. Tổng cộng 9.147.000 đồng (chín triệu, một trăm bốn mươi bảy nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho nguyên đơn Công ty Cổ phần cà phê TL 2.957.000 đồng (hai triệu, chín trăm năm mươi bảy nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0016293 ngày 28/6/2022 và 1.816.000 đồng (một triệu, tám trăm mười sáu nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0016412 ngày 08/8/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyên Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án, hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản số 102/2022/DS-ST
Số hiệu: | 102/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về