TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 646/2023/DS-PT NGÀY 26/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GIAO KHOÁN
Ngày 26 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số X86/2023/DS-ST ngày 20/11/2023 về việc tranh chấp hợp đồng giao khoán.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 168/2023/DS-ST ngày 12/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Đ, thành phố H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 562/2023/QĐ-PT ngày 22/11/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 609/2023/QDDPT-HPT ngày 18/12/2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Trần Văn C, sinh năm 1965 Đăng ký thường trú: Xã S, huyện L, tỉnh P.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Vũ Đình Tr và ông Nguyễn K. Địa chỉ: Số 164 đường Minh Lang, phường Tiên Cát, thành phố V, tỉnh P.
( Có mặt ông K; Vắng mặt ông Tr).
Bị đơn: Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số X Trụ sở: Số 243A Đ, phường Láng Thượng, quận Đ, Th phố H.
- Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đức L – Tổng giám đốc.
- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Tân Th, ông Trần Thái T và ông Nguyễn Quốc Th.
( Có mặt ông Th; Vắng mặt ông Th, ông T).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp luật sư Nguyễn Tiến Th- Văn phòng Luật sư V- Đoàn Luật sư thành phố H. ( Có mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Lương Đức V, sinh năm 1959 Địa chỉ: Số 6, ngách 379/24, ngõ 379 phố Đội Cấn, phường Liễu Giai, quận B, Th phố H. ( Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn ông Trần Văn C do người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ngày 20/11/2009, Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng - Trường Đại học H và Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số X - Tổng Công ty xây dựng H (sau đây gọi tắt là Công ty Xây dựng số X) ký kết Hợp đồng số 22/2009/HĐ-XD về việc thi công xây dựng hạng mục công trình nhà N05B thuộc công trình khu ký túc xá – Trường Đại học H (tỉnh P).
Công ty Xây dựng số X đã giao việc thi công cho đơn vị trực thuộc là Xí nghiệp xây dựng số 7 do ông Phương Xuân H - Giám đốc thực hiện. Sau đó ông Lương Đức V quyền Giám đốc Xí nghiệp xây dựng số 7, giữa ông V và ông Trần Văn C ký Hợp đồng giao khoán ngày 25/9/2012, cụ thể Xí nghiệp xây dựng số 7 giao khoán thi công sơn công trình nhà N05B thuộc công trình khu ký túc xá – Trường Đại học H cho ông Trần Văn C. Ông Trần Văn C đã hoàn thành hợp đồng giao khoán và được Xí nghiệp xây dựng số 7 tạm ứng 125.000.000 đồng, còn nợ lại 88.000.000 đồng.
Ông Trần Văn C đã nhiều lần yêu cầu Xí nghiệp xây dựng số 7 thanh toán khoản tiền còn nợ trên nhưng không được. Ngày 26/8/2015, Xí nghiệp xây dựng số 7 do ông Lương Đức V – Quyền Giám đốc đã ký Bản xin cam kết xác nhận còn nợ nhân công ông Trần Văn C là 88.000.000 đồng và cam kết sẽ thanh toán hết vào ngày 31/12/2015. Đến tháng 12/2015 ông Lương Đức V tiếp tục cam kết tại Bản thỏa thuận cam kết ngày 08/12/2015 về việc sẽ thanh toán kể từ ngày nhà thầu bàn giao cho chủ đầu tư.
Ngày 20/3/2017, tại trụ sở Xí nghiệp xây dựng số 7 – Công ty Xây dựng số X, địa điểm 243A Đ, phường Láng Thượng, quận Đ, Th phố H ông Lương Đức V - Quyền Giám đốc Xí nghiệp xây dựng số 7 tiếp tục cam kết còn nợ ông Trần Văn C và một số người khác khoản tiền như tại Bản xin cam kết ngày 26/8/2015 và hứa sẽ thanh toán hết cho mọi người vào hết quý 3/2017. Nhưng cho đến nay đã nhiều năm ông Trần Văn C vẫn chưa nhận được khoản tiền nhân công mà Xí nghiệp xây dựng số 7 còn nợ, trong khi hoàn cảnh gia đình ông C rất khó khăn.
Năm 2022 ông Trần Văn C cùng một số người lao động khác đã làm đơn đề nghị Đoàn luật sư tỉnh P hỗ trợ bảo vệ quyền lợi trong thanh toán tiền nhân công với Xí nghiệp xây dựng số 7 – Công ty Xây dựng số X. Theo thu thập của Đoàn luật sư tỉnh P tại Phòng Cảnh sát Kinh tế - Công an tỉnh P được biết Trường Đại học H đã thanh toán toàn bộ khoản tiền thi công, xây dựng nhà N05B thuộc công trình ký túc xá – Đại học H và Xí nghiệp xây dựng số 7 hiện nay không còn hoạt động đã giải thể, nên ông Trần Văn C đã khởi kiện Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số X yêu cầu Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số X phải thanh toán cho ông Trần Văn C 88.000.000 đồng là tiền nhân công mà ông Trần Văn C đã sơn vôi nhà N05B thuộc công trình khu ký túc xá – Trường Đại học H.
Bị đơn là Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số X do người đại diện theo ủy quyền trình bày: Công ty Xây dựng số X và Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng - Trường Đại học H đã ký Hợp đồng số 22/2009/HĐ-XD ngày 20/11/2009 về việc thi công xây dựng hạng mục công trình nhà N05B thuộc công trình khu ký túc xá – Trường Đại học H.
Sau đó Công ty Xây dựng số X giao cho đơn vị trực thuộc là Xí nghiệp xây dựng số 7 thực hiện thi công công trình nêu trên. Thời gian đầu công trình do ông Phương Xuân H - Giám đốc Xí nghiệp số 7 điều hành, sau này do ông H bị ốm nên ngày 24/11/2011 Công ty đã có Quyết định 1634 bổ nhiệm công Lương Đức V giữ chức Quyền giám đốc Chi nhánh Công ty xây dựng số X - Xí nghiệp xây dựng số 7.
Năm 2016 công trình hoàn thành đến năm 2017 được quyết toán xong, Công ty xây dựng số X đã thanh toán, quyết toán toàn bộ công trình với Xí nghiệp Xây dựng số 7 mà đại diện là ông Lương Đức V, ông Phương Xuân H. Theo báo cáo tài chính ngày 20/7/2020 và Tài khoản 622, 6271 thể hiện Công ty xây dựng số X đã thanh toán hết toàn bộ vật liệu, nhân công và chi phí khác đối với công trình là 18.948.496.902 đồng cho Xí nghiệp xây dựng số 7. Việc bàn giao nhiệm vụ cho ông Lương Đức V, ông Phương Xuân H trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ thi công công trình khu ký túc xá – Trường Đại học H căn cứ Quy định về quản lý điều hành sản xuất kinh doanh giữa Công ty và đơn vị trực thuộc năm 2006. Theo quy chế của Công ty, ông Lương Đức V chịu trách nhiệm chi tiêu đúng kế hoạch và phải chịu trách nhiệm trước Công ty về việc chi tiêu theo kế hoạch. Ông Lương Đức V có toàn quyền thuê nhân công, thiết bị, vật tư và thanh toán tiền cho các cá nhân và tổ chức để thực hiện công trình. Thông thường khi giao nhiệm vụ cho một cá nhân thực hiện công trình thì Công ty sẽ ban hành Quyết định phân công và Hợp đồng giao khoán cụ thể, Công ty xây dựng số X đã chủ động tìm hồ sơ có liên quan đến việc thanh toán tiền nhân công cho người lao động, Quyết định phân công và Hợp đồng giao khoán nhưng không tìm được. Công ty đã yêu cầu ông Lương Đức V tìm hồ sơ nhưng ông V chưa nộp cho Công ty. Thực tế khi thực hiện công trình ông Lương Đức V tiếp quản lại từ ông Phương Xuân H nên có thể không có quyết định phân công và giao khoán cho ông Lương Đức V. Hiện nay Xí nghiệp xây dựng số 7 đã chấm dứt hoạt động từ tháng 01/2022.
Quan điểm của Công ty là đề nghị Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án do tài liệu của nguyên đơn chỉ là bản photo không đủ căn cứ để Công ty Xây dựng số X thanh toán tiền cho nguyên đơn.
- Tại văn bản số 296/2023/CV-ICON4 ngày 12/8/2023 Công ty Xây dựng số X trình bày:
Thứ nhất: Về quan hệ pháp luật của vụ án là ‘Tranh chấp hợp đồng thi công, xây dựng’, bị đơn không đồng ý vì nguyên đơn là cá nhân không phải là chủ thể của Hợp đồng thi công, xây dựng này được. Thực tế Công ty không hề ký văn bản nào thỏa thuận với nguyên đơn về công việc và cũng không có hồ sơ về việc ký kết hợp đồng lao động của họ; mặt khác Hợp đồng thi công, xây dựng có những chủ thể đặc biệt được ký giữa Chủ đầu tư và nhà thầu là các pháp nhân có đăng ký kinh doanh ngành nghề có điều kiện. Hợp đồng ngoài nhà thầu chính còn có thể có thầu phụ (cũng là pháp nhân), nhưng phải được sự đồng ý của chủ Đầu tư.
Thứ hai: Giấy ủy quyền của nguyên đơn ngày 03/4/2023 là của 5 người khác nhau ủy quyền cho ông K, ông Tr là không phù hợp theo quy định pháp luật. Giấy Ủy quyền đều ký trước khi có Thông báo Thụ lý vụ án của TAND quận Đ. Về hình thức là không phù hợp vì nhiều người ủy quyền cho nhiều người với nhiều nội dung, người ủy quyền ở đây sẽ là một cá nhân chứ không phải một nhóm cá nhân. Về nội dung ủy quyền thì chung chung không xác định. Đây là vụ án được thụ lý rõ ràng theo quy trình tố tụng vì thế nội dung ủy quyền tham gia tố tụng chỉ được thực hiện khi vụ án đã được Tòa án quận Đ thụ lý, trong Giấy ủy quyền không có nội dung cụ thể về việc ủy quyền tham gia vụ án nào, do Tòa án nào thụ lý, với quan hệ pháp luật nào.
Thứ ba: Quá trình thu thập hồ sơ thụ lý vụ án không phù hợp quy định pháp luật. Hồ sơ do người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn nộp cho Tòa án được thu thập trái quy định. Ông K với vai trò người đại diện cho cá nhân nhưng lại dùng hồ sơ do Đoàn luật sư tỉnh P yêu cầu Công an tỉnh P cung cấp (PC03); việc thu thập tài liệu về Công ty Xây dựng số X là không đúng chức năng vì Công ty không phải là đối tượng bị điều tra trong vụ án hình sự đã có kết luận của cơ quan cảnh sát điều tra, điều đó là xâm phạm bí mật kinh doanh và làm thiệt hại đến quyền lợi của Công ty. Mặt khác công an P cũng yêu cầu Đoàn luật sư tỉnh P sử dụng tài liệu đúng mục đích theo quy định pháp luật, nhưng ông K không được Đoàn luật sư tỉnh P bàn giao hồ sơ phục vụ công việc cụ thể của Đoàn luật sư tỉnh P mà đã tự ý mang đi phục vụ công việc cá nhân là hành vi vi phạm pháp luật, tự ý chiếm đoạt tài liệu. Hồ sơ do PC03 công an P cung cấp đều là bản phô tô và cũng không có kết luận xác định về nội dung gì nên chưa đủ căn cứ để thụ lý vụ án.
Thứ tư: Nguyên đơn căn cứ vào Bản xin cam kết do ông Lương Đức V lập ngày 26/8/2015 tại V để yêu cầu Công ty Xây dựng số X thanh toán. Về nội dung ông V cam kết với tư cách cá nhân rất rõ ràng và không hề nhắc đến trách nhiệm của Công ty Xây dựng số X bởi vì thực tế công trình này Công ty không có hồ sơ nợ tiền người lao động. Ông V lập bản cam kết do sức ép việc phải thanh toán nên đã tự ý ký tên đại diện Công ty, nhưng tại thời điểm này Công ty không ủy quyền cho ông V ký cam kết nhận nợ tiền của người lao động, ông V cũng không được Công ty đăng ký là Giám đốc chi nhánh nên việc ông ký tên đóng dấu chi nhánh là không hợp pháp.
Công ty yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn 2. Không công nhận vai trò ủy quyền của ông K, ông Tr. Đề nghị triệu tập nguyên đơn làm rõ ai là người ký đơn khởi kiện và ký các tờ khai, nếu không phải là nguyên đơn thì đề nghị tuyên các văn bản đó không hợp pháp.
3. Đề nghị tuyên Bản xin cam kết do ông Lương Đức V lập ngày 26/8/2015 là văn bản ông V cam kết với tư cách cá nhân, không phải là văn bản được lập bởi Công ty Xây dựng số X, việc ông V ký tên đại diện Công ty Xây dựng số X là không đúng quy định pháp luật.
- Tại đơn đề nghị ngày 28/8/2023, Công ty đề nghị: Đình chỉ giải quyết vụ án do hết thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 149 và Điều 249 Bộ luật Dân sự năm 2015 và điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Tại công văn số 355/2023/CV-ICON4 ngày 07/9/2023 Công ty đề nghị: Trưng cầu giám định Bản xin cam đoan ngày 26/8/2015 và Hợp đồng giao khoán ngày 25/9/2012, Biên bản giao nhận ngày 15/7/2022 của Phòng Kinh tế- Công an tỉnh P.
- Tại công văn số 364/2023/CV-ICON4 ngày 09/9/2023 Công ty đề nghị: Xét xử vắng mặt và rút yêu cầu xem xét về thời hiệu khởi kiện.
- Tại công văn số 369/2023/CV-ICON4 ngày 11/9/2023 Công ty đề nghị: Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; không chấp nhận vai trò người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn K và Vũ Đình Tr; tuyên Bản xin cam kết ngày 26/8/2015 là văn bản ông Lương Đức V ký với tư cách cá nhân, tuyên hai bản sao Bản xin cam kết ngày 26/8/2015 và Hợp đồng giao khoán ngày 25/12/2012 là không hợp pháp do vi phạm Nghị định 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Lương Đức V trình bày:
Ông Phương Xuân H - Giám đốc Xí nghiệp xây dựng số 7 là đơn vị thuộc Công ty xây dựng số X. Năm 2009 ông Phương Xuân H được Công ty xây dựng số X giao khoán thực hiện thi công, xây dựng công trình nhà N05 – Ký túc xá trường Đại học H. Quá trình thực hiện công trình được 03 năm ông Phương Xuân H bị ốm nên Công ty chỉ định ông Lương Đức V là quyền Giám đốc Xí nghiệp xây dựng số 7 (khi đó ông V đang là nhân viên) để tiếp tục thi công, xây dựng công trình trên. Tại thời điểm đó việc thực hiện công trình đang bị lỗ, khi ông V nhận nhiệm vụ theo chỉ định của Công ty, ông đã báo cáo với Ban lãnh đạo Công ty. Tuy nhiên vì uy tín của Công ty và công trình còn dang dở nên Công ty yêu cầu ông V tiếp tục thực hiện công trình.
Các tổ đội, cá nhân khởi kiện là các tổ đội sản xuất trực tiếp thi công trên công trường, các hợp đồng giữa Xí nghiệp xây dựng số 7 và các tổ đội trên là do ông Phương Xuân H ký và thi công. Cụ thể năm 2009 khi nhận giao khoán thực hiện công trình ông Phương Xuân H là người ký Hợp đồng lao động đối với ông Trần Văn C. Sau khi công trình thực hiện xong và được nghiệm thu đi vào hoạt động thì ông V là người ký xác nhận còn nợ ông Trần Văn Trì khoản tiền 88.000.000 đồng là tiền nhân công ông Trần Văn C đã làm đá sơn vôi nhà N05B thuộc công trình khu ký túc xá – Trường Đại học H.
Với tư cách là quyền Giám đốc Xí nghiệp xây dựng số 7 là đơn vị trực thuộc Công ty xây dựng số X, ông V xác nhận ông Trần Văn C là người lao động đã nhận khoán công việc làm sơn vôi nhà N05B thuộc công trình khu ký túc xá – Trường Đại học H từ năm 2009. Ông V xác nhận Công ty xây dựng số X còn nợ ông ông Trần Văn C 88.000.000 đồng theo Bản xin cam kết ngày 26/8/2015. Việc Công ty xây dựng số X cho rằng ông V phải có trách nhiệm thanh toán khoản tiền 88.000.000 đồng cho ông Trần Văn C là không đúng. Bởi công trình bị lỗ ngay từ trước khi ông V tiếp nhận nhiệm vụ. Việc Công ty thanh toán chi phí xây dựng đối với công trình này không đủ tiền để thanh toán cho các nhân công, lao động. Xí nghiệp xây dựng số 7 chỉ là đơn vị trực thuộc của Công ty xây dựng số X không phải là đơn vị ký hợp đồng đối với Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng – Trường Đại học H, mọi thu chi tài chính liên quan đến công trình này đều do Công ty xây dựng số X thực hiện. Xí nghiệp xây dựng số 7 đã giải thể từ nhiều năm nay, bản thân ông V là người lao động của Công ty đã thực hiện theo sự phân công, chỉ đạo của Công ty. Từ năm 2019 ông V đã nghỉ việc tại Công ty xây dựng số X, không còn quan hệ lao động và không có vướng mắc gì đối với Công ty nữa.
Nếu Công ty xây dựng số X quy trách nhiệm cá nhân ông V thì ông sẽ làm việc với Công ty xây dựng số X trong vụ án khác, không liên quan đến việc ông Trần Văn C đòi tiền công, xây dựng trong vụ án này. Ông V không có tài liệu, chứng cứ gì để nộp cho Tòa án. Tại bản tự khai ngày 16/8/2023, ông Lương Đức V trình bày bổ sung: Tôi đã ký Hợp đồng giao khoán ngày 25/9/2012 và Bản thỏa thuận xin cam kết ngày 08/12/2015 với ông Trần Văn C.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 168/2023/DS-ST ngày 12/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Đ đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn C đối với Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số X.
2. Buộc Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số X phải thanh toán trả ông Trần Văn C 88.000.000 đồng (Tám mươi tám triệu đồng) tiền nhân công ông Trần Văn C đã thi công sơn công trình nhà N05B thuộc công trình khu ký túc xá – Trường Đại học H theo Hợp đồng giao khoán ngày 25/9/2012 và Bản xin cam kết ngày 26/8/2015.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu, nếu người bị thi hành án chưa thi hành hoặc thi hành không đầy đủ thì người bị thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi đối với số tiền chậm thi hành theo mức lãi suất được quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án xong.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm, Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số X là bị đơn trong vụ án kháng cáo toàn bộ nội dung đối với bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự xác nhận ngoài các tài liệu chứng cứ đã nộp cho Tòa án thì không còn tài liệu chứng cứ nào khác để nộp cho Tòa án.
Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Bị đơn Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng số X sau khi tóm tắt nội dung vụ án và phân tích vụ án có quan điểm: do giấy ủy quyền của Nguyên đơn không hợp pháp và những sai phạm về tố tụng của cấp sơ thẩm, nên đề nghị bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn hoặc hủy bản án sơ thẩm số 168/2023/DS-ST ngày 12/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Đ, thành phố H, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo trình tự sơ thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án từ thủ tục thụ lý vụ án, mở phiên tòa và tại phiên tòa xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa, đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Sau khi tóm tắt và phân tích nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số X và căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm của Toà án nhân dân quận Đ, H.
Về án phí các đương sự phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:
[1]. Về tố tụng: Xét đơn kháng cáo của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng số X làm trong thời hạn luật định. Người kháng cáo đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm, nên việc kháng cáo là hợp lệ. Tòa án nhân dân Th phố H giải quyết là đúng thẩm quyền.
Về quan hệ pháp luật: Hội đồng xét xử xét thấy, các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện ngày 25/9/2012 ông Nguyễn Văn C và xí nghiệp xây dựng số 7 – Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng số X ký Hợp đồng giao khoán theo đó ông C nhận thi công sơn công trình nhà No5B khu ký túc xá – Trường đại học H.
Các bên thỏa thuận ông C được thanh toán theo khối lượng công việc hoàn thành và thực tế ông C chỉ thực hiện một phần công việc được giao. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là Hợp đồng giao khoán là phù hợp với quy định của pháp luật.
- Về thời hiệu khởi kiện: Hội đồng xét xử xét thấy, theo Bản xin cam kết ngày 26/8/2015, Xí nghiệp xây dựng số 7 do ông Lương Đức V – quyền giám đốc đã ký xác nhận ông Trần Văn C đã thực hiện xong công việc với tổng số tiền khi hoàn thành là 213.000.000 đồng, Xí nghiệp xây dựng số 7 đã tạm ứng 125.000.000 đồng cho ông Trần Văn C, còn nợ 88.000.000 đồng. Ông V – Quyền Giám đốc Xí nghiệp xây dựng số 7 cam kết thanh toán trả cho ông C số tiền 88.000.000 đồng chậm nhất vào ngày 31/12/2015, nhưng đến ngày 31/12/2015 ông C vẫn chưa được thanh toán số tiền trên, nên ông và nhiều người đã nhiều lần làm đơn đề nghị Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số X giải quyết. Năm 2023, ông C khởi kiện vụ án ra Tòa yêu cầu Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số X thanh toán trả cho ông số tiền 88.000.000 đồng mà Xí nghiệp xây dựng số 7- Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng số X còn nợ, xét thấy công nợ đã được ông V – Quyền giám đốc Xí nghiệp xây dựng 7- Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng số X xác nhận. Căn cứ Điều 155 Bộ luật dân sự 2015 Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng thời hiệu khởi kiện là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
Về người tham gia tố tụng: Bị đơn cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông Phương Xuân H vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiệm trọng thủ tục tố tụng. Hội đồng xét xử xét thấy, quá trình giải quyết và tại phiên tòa đại diện bị đơn xác nhận thời gian đầu thi công công trình do ông H điều hành công trình, nhưng do ông H bị ốm nên ngày 21/11/2011 Công ty đã có Quyết định số 1634 bổ nhiệm ông Lương Đức V giữ chức vụ quyền giám đốc Chi nhánh công ty xây dựng số X- Xí nghiệp xây dựng số 7, kể từ khi được bổ nhiệm ông V là người điều hành mọi công việc của xí nghiệp xây dựng số 7- Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng số X. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông H vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật.
Bị đơn còn cho rằng việc ủy quyền của Nguyên đơn cho ông Vũ Đình Tr và ông Nguyễn K là không hợp lệ. Xét thấy căn cứ theo quy định tại Điều 562, 563,567,568 Bộ luật dân sự năm 2015 thì việc ủy quyền của Nguyên đơn cho ông Tr và ông K là hợp pháp, nên Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận ủy quyền của Nguyên đơn cho ông Tr và ông K là phù hợp với quy định của pháp luật.
Ngoài ra bị đơn còn cho rằng quá trình giải quyết vụ án tại phiên họp kiểm tra giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải ngày 14/8/2023 Tòa án cấp sơ thẩm đã ghi sai rất nhiều hồ sơ do nguyên đơn giao nộp và biên bản có chữ ký của Luật sư Hoàng Thị P- Văn phòng luật sư T- Đoàn luật sư thành phố Hà nội là người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn, nhưng tại thời điểm này Luật sư P chưa hoàn tất hồ sơ pháp lý của văn phòng luật sư T theo quy định của pháp luật để nộp cho Tòa án , nhưng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn chấp nhận tư cách luật sư là vi phạm tố tụng. Xét thấy, việc Tòa án cấp sơ thẩm đưa tên Luật sư vào biên bản phiên họp kiểm tra giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải ngày 14/8/2023 khi Luật sư chưa hoàn tất thủ tục Luật sư theo quy định của pháp luật là có thiếu sót. Tuy nhiên Luật sư P chỉ tham gia tố tụng tại phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải ngày 14/8/2023 ngoài ra Luật sư P không tham gia bất kể giai đoạn tố tụng nào khác. Xét thấy những sai phạm này không phải vi phạm nghiệm trọng thủ tục tố tụng, cấp sơ thẩm cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
[2]. Về nội dung: Xét kháng cáo của Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số X, Hội đồng xét xử nhận thấy: Ngày 20/11/2009, Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số X và Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng - Trường Đại học H đã ký kết Hợp đồng số 22/2009/HĐ-XD về việc thi công xây dựng hạng mục công trình nhà N05B thuộc công trình khu ký túc xá - Trường Đại học H. Giá trị hợp đồng là 20.446.519.000 đồng. Công ty Xây dựng số X đã giao đơn vị trực thuộc là Chi nhánh Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số X - Xí nghiệp xây dựng số 7 do ông Phương Xuân H là giám đốc thực hiện. Ngày 24/12/2011 Công ty đã có quyết định bổ nhiệm ông Lương Đức V giữ chức Quyền Giám đốc, theo đó ông V có trách nhiệm nhận bàn giao các công tác có liên quan của Chi nhánh Công ty cổ phần đầu tư và Xây dựng số X - Xí nghiệp xây dựng số 7 từ ông Phương Xuân H đồng thời chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc công ty về việc tiếp tục giải quyết các tồn đọng, vướng mắc và điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần đầu tư và Xây dựng số X - Xí nghiệp xây dựng số 7.
Tại Điều 1 Quyết định số 2802/QĐ-UBND ngày 26/10/2017 của UBND tỉnh P thể hiện: Thời gian khởi công hoàn thành Nhà N05B thuộc dự án Khu ký túc xá – Trường Đại học H: Được duyệt từ 01/2007 đến 12/2011; Thực tế từ công trình được thực hiện từ tháng 11/2009 đến tháng 8/2016. Giá trị quyết toán vốn đầu tư công trình hoàn thành là 21.903.078.000 đồng.
Quá trình điều hành thi công công trình, ngày 25/9/2012, ông Lương Đức V và ông Trần Văn C đã ký Hợp đồng giao khoán với nội dung sau: Đại diện đơn vị thuê khoán (Xí nghiệp xây dựng số 7- Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số X - H) gọi là (A) – ông Lương Đức V - Giám đốc xí nghiệp.
Đại diện đơn vị nhận thầu (gọi là B) tổ sản xuất: Ông Trần Văn C - Chức vụ Đội trưởng đội sơn vôi.
Nội dung: Bên A giao khoán cho bên B thi công các công việc cụ thể thuộc công trình nhà N05B khu ký túc xá – Trường Đại học H- P. Ngoài ra Hợp đồng còn quy định về khối lượng và đơn giá, yêu cầu chất lượng, hình thức thanh toán và tạm ứng tiền nhân công.
Ngày 26/8/2015, ông Lương Đức V xác nhận tại Bản xin cam kết như sau: “Tôi Lương Đức V, chức vụ quyền Giám đốc Xí nghiệp Xây dựng số 7 - Công ty CPĐT và xây dựng số X Tổng công ty xây dựng H… Là nhà thầu thi công: Công trình ký túc xá N05B trường Đại học Hùng Vươn g- V - P.
Do yêu cầu của BQLDA Trường đại học H, yêu cầu phải bàn giao công trình KTX N05B V - P đưa vào khai thác sử dụng gấp công trình này do XNXD số 7 Tổng công ty cổ phần đầu tư và xây dựng số X Tổng công ty xây dựng H mà tôi làm quyền giám đốc XNXD số 7 trực tiếp thi công.
Trong khi đó xí nghiệp tôi còn nợ tiền công nhân + vật tư + tiền lương với các tổ thợ và nhân viên quản lý công trường.
Để đảm bảo công tác bàn giao công trình KTX N05B trường đại học H cho BQLDA của trường đưa vào khai thác sử dụng được thuận tiện và đúng yêu cầu.
Tôi xin cam kết số tiền nợ nhân công + vật tư + tiền lương của công nhân và nhân viên trong công trường (có danh sách kèm theo) tôi hẹn đến 31/12/2015 tôi sẽ hoàn trả đủ 100%.....”.
Xét thấy, bản cam kết ngày 26/8/2015 và Hợp đồng giao khoán ngày 25/9/2012 đã được ông Lương Đức V ký với tư cách Quyền Giám đốc Xí nghiệp xây dựng số 7, được đóng dấu của Chi nhánh Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số X - Xí nghiệp xây dựng số 7, nội dung và hình thức phù hợp với quy định pháp luật nên có giá trị pháp lý. Theo Danh sách còn nợ của bản cam kết ngày 26/8/2015 thì ông Trần Văn C, bộ phận sơn vôi thực hiện công việc với tổng số tiền khi hoàn thành là 213.000.000 đồng, đã tạm ứng 125.000.000 đồng, còn nợ 88.000.000 đồng.
Theo Quy định về quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh giữa Công ty và các đơn vị trực thuộc của Công ty xây dựng số X được ban hành kèm theo quyết định số 22 XD4-HĐQT ngày 29/5/2006 quy định:
- Công ty là đơn vị hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân chịu sự kiểm tra của Tổng công ty XD H và Nhà nước. Các đơn vị trực thuộc hoạt động theo kế hoạch, hạch toán nội bộ, chịu sự quản lý, kiểm tra và hướng dẫn của Công ty.
- Khối trực tiếp sản xuất có nhiệm vụ chung trong đó có nhiệm vụ : Trực tiếp thi công những công trình do Tổng giám đốc công ty giao nhiệm vụ thi công theo đúng phương châm đảm bảo chất lượng, tiến độ hiệu quả kinh tế và an toàn lao động.
Theo Quy chế tài chính và phân cấp quản lý tài chính đối với các đơn vị trực thuộc của Công ty xây dựng số X quy định: “…Giám đốc Chi nhánh xí nghiệp chịu trách nhiệm trước Công ty và pháp luật Nhà nước về tính đúng đắn, chính xác, hợp lý các khoản doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh của Chi nhánh xí nghiệp mình”- Điều 11.
“… Việc thanh toán giữa Chi nhánh xí nghiệp với khách hàng thông qua tài khoản, quỹ tiền mặt của Chi nhánh xí nghiệp hoặc tài khoản của Công ty. Công ty thực hiện việc hạch toán, thanh toán nội bộ giữa cấp trên và cấp dưới hoặc giữa các đơn vị nội bộ với nhau thông qua Công ty” - Điều 14.1 Điều 44 Luật Doanh nghiệp quy định: “Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp, bao gồm cả chức năng đại diện ủy quyền. Ngành, nghề kinh doanh của chi nhánh phải đúng với ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp”.
Các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện công trình Nhà N05B thuộc công trình khu ký túc xá – Trường Đại học H do Xí nghiệp xây dựng số 7 đơn vị trực thuộc Công ty xây dựng số X trực tiếp thi công. Quá trình giải quyết và tại phiên tòa các đương sự đều xác nhận công trình nhà N05B khu ký túc xá- Trường Đại học H đã được bàn giao đưa vào sử dụng từ năm 2016, Công ty cổ phần đầu tư xây dựng số X đã được chủ đầu tư thanh toán đầy đủ giá trị quyết toán công trình và từ khi công trình được bàn giao đưa vào sử dụng cho đến nay không có bên nào thắc mắc, khiếu nại gì về chất lượng, khối lượng của công trình. Do vậy, Tòa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn C, buộc Công ty cổ phần đầu tư xây dựng số X phải có nghĩa vụ thanh toán trả ông Trần Văn C số tiền nhân công 88.000.000 đồng tiền nhân công sơn công trình nhà N05 thuộc công trình khu ký túc xá - trường đại học H là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật, nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng 4.
Từ những phân tích trên xét thấy không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng số X, nên giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Trường hợp giữa Công ty xây dựng số X và Xí nghiệp xây dựng số 7, ông Lương Đức V có tranh chấp về việc thực hiện Công trình Nhà N05B thuộc công trình khu ký túc xá – Trường Đại học H sẽ được giải quyết trong vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.
Quan điểm của Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng số X không phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ nên không được chấp nhận.
Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ nên được chấp nhận.
Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 3 Điều 26, 220, 227, 228; Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử:
1. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 168/2023/DS-ST ngày 12/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Đ, thành phố H.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng số X phải chịu số tiền án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0002805 ngày 16/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Đ.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng giao khoán số 646/2023/DS-PT
Số hiệu: | 646/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về