Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 635/2023/KDTM-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 635/2023/KDTM-PT NGÀY 31/05/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ

Ngày 24 tháng 5 năm 2023 và ngày 31 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 47/2023/TLPT-KDTM ngày 20 tháng 3 năm 2023 về việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ.

Do bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 639/2022/KDTM-ST ngày 16 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1475/2023/QĐPT- KDTM ngày 03 tháng 4 năm 2023và Quyết định hoãn phiên tòa số 4637/2023/QĐ-PT ngày 26 tháng 4 năm 2023 giữa:

1. Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M;

Địa chỉ: LE 04.44- LE 04.45, tầng 4, khối E, Tòa nhà L, 67 M, Phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo pháp luật: Ông Phan Đăng D. (có mặt) Cùng địa chỉ: Số 23 đường 4B, phường H, thành phố T, Tp.Hồ Chí Minh. (Có mặt)

2. Bị đơn: Công ty Cổ phần V Production;

Địa chỉ: 55/1 P, Phường E, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Lê Hoài G (văn bản ủy quyền ngày 16/4/2021).

Địa chỉ: 47/1 Nguyễn Văn Đ, Phường S, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tóm tắt nội dung và quyết định của bản án sơ thẩm:

Ngày 16/9/2019, Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M (từ đây gọi tắt là Công ty M) và Công ty Cổ phần V Production (từ đây gọi tắt là Công ty V) đã ký kết Hợp đồng dịch vụ số 28082019/DV/M. 19-01 về việc ca sỹ Văn Mai H tham gia làm ban giám khảo cho cuộc thi “FE Credit’s Got Talent Mùa 2” do Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M tổ chức tại Sảnh F, Tầng 5, Gala Center, 415 H, Phường K, Quận C, Tp. Hồ Chí Minh. Theo khoản 1.2 Điều 1 của Hợp đồng thì “Thời gian làm việc từ 18h00 đến 22h00 ngày 15/11/2019” và “Bên B (ca sỹ Văn Mai H) có mặt tại điểm thi vào lúc 17h00 để được Ban tổ chức phổ biến về nội dung các phần thi và cách thức chấm điểm”. Tuy nhiên ngày 15/11/2019, sau khi Công ty Cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M đã hoàn tất những công việc chuẩn bị cho chương trình “FE Credit’s Got Talent Mùa 2” diễn ra theo đúng lịch trình quay vào lúc 18h30 thì ca sỹ Văn Mai H không có mặt tại địa điểm tổ chức cuộc thi đúng thời gian như đã thỏa thuận trong Hợp đồng, đồng thời phía Công ty Cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M cũng không nhận được bất kỳ thông báo nào từ phía đại diện của ca sỹ Văn Mai H. Cho đến khi gần bắt đầu chương trình, phía đại diện Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M liên lạc với đại diện của ca sỹ Văn Mai H thì mới nhận được tin ca sỹ sẽ đến trễ do bị tắc đường.

Để chương trình thực hiện một cách tốt đẹp, phía Công ty cổ phần Quảng Cáo và Sự kiện M đã kéo dài thời gian bắt đầu chương trình nhưng ca sỹ Văn Mai H vẫn không kịp đến nên Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M đã cho chương trình bắt đầu lúc 18h50 phút mà không có sự tham gia của ca sĩ Văn Mai H với tư cách là giám khảo. Với những sự kiện xảy ra, Công ty Cổ phần V Production đã vi phạm những thỏa thuận, cam kết trong Hợp đồng dịch vụ số 28082019/DV/M.19-01, ngày 16/9/2019 giữa hai bên.

Nay Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

- Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M yêu cầu Công ty Cổ phần V Prodution chuyển trả lại cho số tiền thanh toán đợt 1 theo Hợp đồng dịch vụ số 28082019/DV/M.19-01 là 23.100.000 (Hai mươi ba triệu một trăm nghìn) đồng - Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M yêu cầu Công ty Cổ phần V Prodution bồi thường 77.000.000 (Bảy mươi bảy triệu) đồng.

- Tiền lãi do chậm thanh toán, tính từ ngày 15/11/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm với mức lãi suất là 10%/năm, cụ thể là 27.554.125 đồng.

Tổng cộng là 127.654.125 đồng.

Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn cho rằng mặc dù nguyên đơn không có tài liệu, chứng cứ chứng minh cho thiệt hại thực tế xảy ra và Công ty Tài chính TNHH MTV Ngân hàng Việt Nam V là đơn vị thuê nguyên đơn tổ chức sự kiện cũng không yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại, nhưng vi phạm bị đơn là vi phạm cơ bản của hợp đồng theo theo thỏa thuận tại điểm f khoản 2.2 Điều 2 của hợp đồng, được xem là bị đơn yêu cầu hủy hợp đồng, do đó bị đơn phải Bồi thường thiệt hại theo thỏa thuận tại Điều 6 của hợp đồng.

Tại các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, người đại diện hợp pháp của bị đơn là bà Lê Hoài G trình bày: Ngày 16/9/2019, Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M và Công ty Cổ phần V Production có ký kết Hợp đồng dịch vụ số 28082019/DV/M. 19-01 về việc ca sỹ Văn Mai H tham gia làm ban giám khảo cho cuộc thi “FE Credit’s Got Talent Mùa 2” do Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M tổ chức tại Sảnh F, Tầng 5, Gala Center, 415 H, Phường K, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. Việc ca sỹ đi trễ cũng là việc thường xảy ra của giới nghệ sỹ, hôm đó vì kẹt xe nên ca sĩ Văn Mai H đã đi trễ, xác định là có hành vi vi phạm hợp đồng, Công ty Cổ phần V Production cũng rất có thiện chí để các bên thượng lượng hòa giải với nhau để vui vẻ. Tuy nhiên đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại thì bị đơn không đồng ý vì thiệt hại thực tế đã không xảy ra, ban giám khảo đã được thay thế ngay và cuộc thi vẫn cứ tiếp tục, hình ảnh quảng bá của ca sĩ Văn Mai H đã được sử dụng, thu hút được nhiều khan giả, bị đơn cũng không yêu cầu chi phí khi sử dụng hình ảnh cũng là thiện chí bù đắp một phần cho việc vi phạm của mình, hơn nữa phía Công ty Tài chính TNHH MTV Ngân hàng Việt Nam V là đơn vị thuê nguyên đơn tổ chức sự kiện cũng không yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại, nên việc nguyên đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại khi không có thiệt hại thực tế xảy ra là không đúng, nguyên đơn cũng không đưa ra được bất kỳ tài liệu, chứng cứ gì chứng minh cho thiệt hại. Hơn nữa đây là hành vi vi phạm của bị đơn (do kẹt xe trong ngày diễn ra chương trình) và bị đơn đồng ý trả tiền tiền lại cho nguyên đơn, bị đơn không có bất kỳ yêu cầu hay thông báo hủy hợp đồng nào trước khi diễn ra chương trình, nên do đó không thể thuộc trường hợp bồi thường thiệt hại theo Điều 6 của hợp đồng, đồng thời hợp đồng dịch vụ số 28082019/DV/M. 19-01 thể hiện rất rõ nội dung, đại diện nguyên đơn không có quyền giải thích hợp đồng.

Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 639/2022/KDTM-ST ngày 16 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên:

1. Buộc Công ty Cổ phần V Production trả cho Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M số tiền 29.458.643 đồng (hai mươi chín triệu bốn trăm năm mươi tám nghìn sáu trăm bốn mươi ba đồng). Thi hành một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định Điều 306 Luật Thương mại năm 2005.

2. Không chấp nhận yêu cầu của Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M buộc Công ty Cổ phần V Production bồi thường 77.000.000 (Bảy mươi bảy triệu) đồng và tiền lãi do chậm thanh toán 21.195.482 đồng, tổng cộng 98.195.482 đồng.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các bên đương sự.

Ngày 29 tháng 8 năm 2022, đại diện ủy quyền nguyên đơn có đơn kháng cáo.

Nội dung kháng cáo: Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xét xử tuyên án vào ngày 16/8/2023.

Tại phiên Tòa phúc thẩm :

* Nguyên đơn trình bày: Không đồng ý với toàn bộ bản án sơ thẩm đề nghị hủy bản án sơ thẩm.

Lý do: Tại đơn khởi kiện đề ngày 25/11/2019 và đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện đề ngày 24/12/2021, Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M yêu cầu Công ty Cổ phần V Prodution bồi thường 77.000.000 (Bảy mươi bảy triệu) đồng. Căn cứ Điều 307 Luật kinh doanh thương mại và Điều 418 Bộ luật dân sự năm 2015; đồng thời căn cứ Điều 6 Hợp đồng Hợp đồng dịch vụ số 28082019/DV/M.19-01 có quy định phải đền bù khi một bên không thực hiện hợp đồng. Bản án sơ thẩm đã không xem xét yêu cầu của nguyên đơn mà lại nhận định nguyên đơn đã không cung cấp được chứng cứ chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra. Trong khi đó hợp đồng có quy định mức phạt hợp đồng khi một bên không thực hiện hợp đồng, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét yêu cầu này của nguyên dơn.

* Bị đơn trình bày: Nguyên đơn không có bất kỳ tài liệu chứng cứ nào chứng minh thực tế thiệt hại xảy ra cho nguyên đơn, ngoài ra công ty tài chính TNHH MTV ngân hàng Việt Nam V cũng không có yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại. Nguyên đơn không có tài liệu, chúng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là có cơ sở và căn cứ pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ kháng cáo và giữ nguyên án sơ thẩm.

* Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

- Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử thực hiện trình tự thủ tụng tố tụng tại phiên tòa theo đúng quy định của pháp luật. Các đương sự thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn.

Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm số 639/2022/KDTM-ST ngày 16 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền: Căn cứ đơn khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì có cơ sở xác định đây là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa các tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận. Bị đơn có trụ sở chính tại quận N, Thành phố Hồ Chí Minh nên Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b Khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để xác định thẩm quyền giải quyết là có cơ sở.

Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M kháng cáo bản án sơ thẩm số 639/2022/KDTM-ST ngày 16 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 38 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 nên thuộc thẩm quyền giải quyết Tòa kinh tế Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

[1.2] Đại diện ủy quyền bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án. Căn cứ khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xét xử tuyên án vào ngày 16/8/2022.

Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[2.1] Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M yêu cầu Công ty Cổ phần V Prodution chuyển trả lại cho số tiền thanh toán đợt 1 theo Hợp đồng dịch vụ số 28082019/DV/M.19-01 là 23.100.000 (Hai mươi ba triệu một trăm nghìn) đồng.

Vào ngày 16 tháng 9 năm 2019, Công ty M và Công ty V đã ký kết Hợp đồng dịch vụ số 28082019/DV/M. 19-01 về việc ca sỹ Văn Mai H tham gia làm ban giám khảo cho cuộc thi “FE Credit’s Got Talent Mùa 2” do Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M tổ chức. Nội dung hợp đồng có quy định chi tiết nội dung công việc; Thời gian làm việc; Giá trị hợp đồng là 77.000.000 đồng; Phương thức thanh toán thành 02 đợt:

a) Đợt 1: Bên A thanh toán 30% chi phí, số tiền là 23.100.000 đồng sau khi ký hợp đồng;

b) Đợt 2: Bên A thanh toán chi phí còn lại, số tiền là 53.900.000 đồng sau khi kết thúc chương trình… Thực hiện hợp đồng, ngày 18/9/2019 Công ty M đã thanh toán cho Công ty V số tiền 23.100.000 đồng sau khi ký hợp đồng.

Ngày 15/11/2019, diễn ra theo đúng lịch trình quay cho chương trình “FE Credit’s Got Talent Mùa 2” thì ca sỹ Văn Mai H không có mặt tại địa điểm tổ chức cuộc thi đúng thời gian như đã thỏa thuận trong Hợp đồng. Cho đến khi gần bắt đầu chương trình, phía đại diện Công ty M liên lạc với đại diện của ca sỹ Văn Mai H thì mới nhận được tin ca sỹ sẽ đến trễ do bị tắc đường. Để chương trình thực hiện một cách tốt đẹp, phía Công ty M đã kéo dài thời gian bắt đầu chương trình nhưng ca sỹ Văn Mai H vẫn không kịp đến nên Công ty M đã cho chương trình bắt đầu lúc 18h50 phút mà không có sự tham gia của ca sĩ Văn Mai H với tư cách là giám khảo.

Cấp sơ thẩm đã thu thập chứng cứ, lấy lời khai của ông Nguyễn Văn H, ông là đại diện người liên hệ của Công ty V trong hợp đồng dịch vụ số 28082019/DV/M. 19-01 ký kết giữa Công ty M và Công ty V vào ngày 16 tháng 9 năm 2019 thì ngày 15/11/2019 ca sỹ Văn Mai H có đến cuộc thi, tuy nhiên do kẹt xe nên bị đến trễ, Công ty M vẫn có thể tạo điều kiện cho ca sỹ Văn Mai H tiếp tục tham gia cuộc thi nhưng Công ty M đã không thực hiện. Ngay sau ngày 15/11/2019, ông có viết email xin lỗi và đồng ý trả lại tiền đặt cọc cho Công ty M nhưng Công ty M không đồng ý. Đồng thời ông Nguyễn Công Tuấn A, đại diện quản lý cho ca sỹ Văn Mai H cũng xác nhận ngày 15/11/2019 ca sỹ Văn Mai H có đến cuộc thi, tuy nhiên do kẹt xe nên bị đến trễ, Công ty M vẫn có thể tạo điều kiện cho ca sỹ Văn Mai H tiếp tục tham gia cuộc thi nhưng Công ty M đã không thực hiện. Công ty V có thiện chí để các bên thượng lượng hòa giải với nhau và đồng ý trả số tiền thanh toán đợt 1 theo Hợp đồng dịch vụ số 28082019/DV/M.19-01 là 23.100.000 đ (Hai mươi ba triệu một trăm nghìn đồng).

Ngày 07 tháng 9 năm 2020, Công ty Tài chính TNHH MTV Ngân hàng Việt Nam V (từ đây gọi tắt là VPB FC) có văn bản số: 3737/QTNNL-FC.20 Về việc phúc đáp Công văn số 936/TAQPN nội đung: “Ngày 15/11/2019, VPB FC đã tổ chức cuộc thi FE Credit’s Got Talent Mùa 2 cho nhân viên của VPB FC tại Sảnh F, tầng 5, Gala Center, 415 H, Phường K, Quận C, Tp. Hồ Chí Minh. Theo kế hoạch cuộc thi bắt đầu lúc 18h30 phút nhưng ca sỹ Văn Mai H chưa có mặt. Đến 18h50 phút do không chờ được nữa nên cuộc thi chính thức bắt đầu.

Ca sỹ Văn Mai H có đến cuộc thi. Tuy nhiên, thời điểm ca sỹ Văn Mai H có mặt là 19 giờ 20 phút ngày 15/11/2019. Do ca sỹ Văn Mai H đã tới muộn nên ca sỹ Văn Mai H không tham gia làm giám khảo cho cuộc thi”. Từ những căn cứ trên, có cơ sở xác định bị đơn đã vi phạm theo thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ và vi phạm nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ quy định tại mục 1.2 Điều 1 của Hợp đồng và Điều 79 Luật Thương mại năm 2005. Cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn chuyển trả lại cho số tiền thanh toán đợt 1 theo Hợp đồng dịch vụ số 28082019/DV/M.19-01 là 23.100.000đ (Hai mươi ba triệu một trăm nghìn đồng) ngay khi bản án có hiệu lực là có cơ sở.

Về yêu cầu tính lãi chậm thanh toán đối với số tiền 23.100.000đ, tính từ ngày 15/11/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm với mức lãi suất là 10%/năm. Căn cứ Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu tính lãi do chậm thanh toán theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường, cấp sơ thẩm đã thu thập mức lãi của 3 Ngân hàng thương mại lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường của 03 Ngân hàng thương mại là 10.5%/năm và áp dụng 10%/năm theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 là có lợi cho bị đơn và phù hợp quy định của pháp luật, cụ thể là 23.100.000 đồng x 33 tháng 1 ngày với mức lãi suất 10%/năm là 6.358.643 đồng.

[2.2] Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M buộc bị đơn Công ty Cổ phần V Prodution bồi thường 77.000.000 (Bảy mươi bảy triệu) đồng. Như đã phân tích, bị đơn đã vi phạm theo thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ và vi phạm nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ quy định tại mục 1.2 Điều 1 của Hợp đồng việc vi phạm này không thuộc điều kiện hủy- hoãn hợp đồng và các trường hợp bất khả kháng như quy định tại Điều 6 hợp đồng.

Tại phiên tòa, đại diện pháp luật của Nguyên đơn Công ty M xác nhận không cung cấp được chứng cứ chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra, đồng thời công ty cũng chưa thiệt hại gì về vật chất nhưng lâu dài sẽ mất uy tín với khách hàng. Căn cứ Điều 302; Điều 303 và Điều 304 Luật thương mại năm 2005 nghĩa vụ chứng minh tổn thất “Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Như vậy, nguyên đơn phải có nghĩa vụ chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra, phải có thiệt hại thực tế. Quá trình giải quyết việc kiện và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chỉ đưa ra số tiền bồi thường thiệt hại tương đương số tiền 77.000.000 (Bảy mươi bảy triệu) đồng mà không chứng minh được mức độ tổn thất và thiệt hại thực tế do bị đơn gây ra. Căn cứ điểm c khoản 6.2 Điều 6 của hợp đồng dịch vụ số 28082019/DV/M. 19-01 “Nếu bên B hủy hợp đồng mà không phải do tai nạn bất ngờ, thiên tai, tình trạng sức khoẻ nguy kịch hoặc không do bên A thì Bên B phải đền bù cho Bên A”: ...”trong vòng 03 ngày trước khi diễn ra chương trình: 100% tổng giá trị hợp đồng”. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn bồi thường theo quy định tại Điều 6 của Hợp đồng điều kiện hủy- hoãn hợp đồng; Điều 307 Luật kinh doanh thương mại năm 2005 và Điều 418 Bộ luật dân sự năm 2015 là không có cơ sở. Cấp sơ thẩm áp dụng Điều 303 và Điều 304 Luật thương mại 2005 không chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn là phù hợp quy định của pháp luật.

Do yêu cầu bồi thường 77.000.000 (Bảy mươi bảy triệu) đồng của nguyên đơn không được chấp nhận, do đó tiền lãi do chậm thanh toán, cụ thể là 21.195.482 đồng không được chấp nhận.

Về yêu cầu chi phí nhờ Luật sư là 40.000.000 đồng, đại diện pháp luật của nguyên đơn Công ty M không yêu cầu giải quyết, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện. Căn cứ khoản 2 Điều 71 và Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 Hội đồng xét xử đình chỉ các yêu cầu này của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện ủy quyền nguyên đơn xác nhận không đưa ra chứng cứ nào chứng minh cho yêu cầu kháng cáo hủy bản án sơ thẩm.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm bác toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn và sửa bản án sơ thẩm số 639/2022/KDTM-ST ngày 16 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.

[3] Về án phí :

[3.1] Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Nguyên đơn được chấp nhận phần yêu cầu bị đơn trả 29.458.643 đồng nên bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại với mức thu là 29.458.643 đồng x 5%= 1.472.932 đồng (Một triệu bốn trăm bảy mươi hai nghìn chín trăm ba mươi hai đồng).

Nguyên đơn yêu cầu bị đơn bồi thường 77.000.000 (Bảy mươi bảy triệu) đồng và tiền lãi do chậm thanh toán 21.195.482 đồng (Hai mươi mốt triệu một trăm chín mươi lăm nghìn bốn trăm tám mươi hai đồng), tổng cộng 98.195.482 đồng (Chín mươi tám triệu một trăm chín mươi lăm nghìn bốn trăm tám mươi hai đồng) không được chấp nhận, nên nguyên đơn phải chịu án phí là 98.195.482 đồng x 5%= 4.909.774 đồng (Bốn triệu chín trăm lẻ chín nghìn bảy trăm bảy mươi bốn đồng).

[3.2] Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm:

Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Do sửa bản án sơ thẩm nên Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M không phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm. Hoàn lại số tiền tạm ứng án phí 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) cho Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/0029711 ngày 16/9/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Phú Nhuận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 và khoản 1 Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Căn cứ Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M sửa bản án sơ thẩm số 639/2022/KDTM-ST ngày 16 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh như sau:

1.Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M.

Buộc Công ty Cổ phần V Production trả cho Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M số tiền 29.458.643 đồng (Hai mươi chín triệu bốn trăm năm mươi tám nghìn sáu trăm bốn mươi ba đồng). Trong đó: Tiền thanh toán đợt 1 theo Hợp đồng dịch vụ số 28082019/DV/M.19-01 là 23.100.000đ; tiền lãi là 6.358.643 đồng.Thi hành một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định Điều 306 Luật Thương mại năm 2005.

2. Không chấp nhận yêu cầu của Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M buộc Công ty Cổ phần V Production bồi thường 77.000.000 (Bảy mươi bảy triệu) đồng và tiền lãi do chậm thanh toán 21.195.482 đồng, tổng cộng 98.195.482 đồng (Chín mươi tám triệu một trăm chín mươi lăm nghìn bốn trăm tám mươi hai đồng).

3. Đình chỉ phần yêu cầu chi phí nhờ Luật sư là 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng).

4. Về án phí:

Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:

Công ty Cổ phần V Production phải nộp án phí là 1.472.932 đồng (Một triệu bốn trăm bảy mươi hai nghìn chín trăm ba mươi hai đồng).

Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M phải nộp án phí là 4.909.774 đồng (Bốn triệu chín trăm lẻ chín nghìn bảy trăm bảy mươi bốn đồng). Được cấn trừ số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 3.502.000 đồng theo biên lai thu số AA/2017/0042470 ngày 12 tháng 12 năm 2019 và 501.000 đồng theo biên lai thu số AA/2021/0029206 ngày 23 tháng 02 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Phú Nhuận. Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M phải nộp thêm 906.774 đ (Chín trăm lẻ sáu nghìn bảy trăm bảy mươi bốn nghìn đồng).

Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm nên Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M không phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm. Hoàn lại số tiền tạm ứng án phí 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) cho Công ty cổ phần Quảng cáo và Sự kiện M đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/0029711 ngày 16/9/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Phú Nhuận.

Các bên đương sự thi hành tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 635/2023/KDTM-PT

Số hiệu:635/2023/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 31/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về