TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 395/2023/DS-ST NGÀY 02/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ
Ngày 02 tháng 8 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận T, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự, thụ lý số 526/2022/DSST ngày 08 tháng 11 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 453/2023/QĐXXST-DS ngày 06 tháng 6 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 619/2023/QĐST-DS ngày 05 tháng 7 năm 2023, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Văn Thị Diễm T, sinh năm 1976 (có mặt) Địa chỉ: A, khu dân cư B, Phường X, Quận Y, Thành phố H
2. Bị đơn: Công ty NK (vắng mặt) Địa chỉ: X, phường Y, quận T, Thành phố H. Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thanh H Địa chỉ: C, phường Y, quận Z, Thành phố H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 10 tháng 8 năm 2022 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Văn Thị Diễm T trình bày:
Ngày 25/7/2022, bà T gọi đến số điện thoại của Trung tâm sửa chữa NK thuộc Công ty NK (sau đây gọi là công ty NK) nhờ đến địa chỉ 60 Đường A1, KDC Bến Lức, Phường 07, Quận 8, Thành phố H để kiểm tra và sửa chữa máy lạnh. Nhân viên đến kiểm tra và báo cục nóng máy lạnh bị hư phải thay boa mới giá 4.500.000 (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng) hoặc sửa bo mạch cũ giá 2.500.000 (Hai triệu năm trăm nghìn đồng). Bà T chọn cách thay mới boa mạch cục nóng máy lạnh Daikin. Nhân viên sửa chữa yêu cầu bà tạm ứng 1.200.000 (Một triệu hai trăm nghìn đồng) cho 01 (Một) bo mạch cục nóng máy lạnh Daikin. Bà T đã tạm ứng, trả đúng số tiền yêu cầu. Nhân viên hẹn giao bo mạch cục nóng mới 100%, đúng số hiệu in trên bao bì của nhà sản xuất Daikin và ghi phiếu thu nhận tạm ứng tiến cho bà T.
Ngày 27/7/2022, nhân viên của công ty NK mang bo đến để thay. Bà T phát hiện bo mạch không đúng số hiệu trên bao bì và hộp đựng đã mở niêm phong trước khi hàng được giao đến nhà bà nên không đồng ý nhận hàng. Nhân viên nói sẽ báo lại với công ty và sẽ mang bo mạch khác đến.
Ngày 03/8/2022, không thấy nhân viên đến giải quyết, bà T gọi vào số điện thoại Trung tâm bảo hành NK thuộc công ty NK và nhận được câu trả lời: Do đã mang hàng đến bà không chịu nhận nên phải mất tiền cọc và họ không có trách nhiệm giải quyết gì.
Nay bà T khởi kiện yêu cầu công ty NK hoàn trả cho bà số tiền 1.200.000 đồng, thanh toán một lần, ngay sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Sau khi bà T khởi kiện thì bên công ty NK có liên lạc với bà và đề nghị bà cho số tài khoản ngân hàng để chuyển trả số tiền 1.200.000 đồng nhưng bà T đề nghị hai bên cùng lên Tòa án để giải quyết.
Bị đơn công ty NK đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhưng bị đơn đều vắng mặt không có lý do chính đáng, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan và không có yêu cầu giải quyết vắng mặt theo quy định nên Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án.
Tại phiên tòa:
Bà Văn Thị Diễm T trình bày: vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị bị đơn trả cho tôi số tiền 1.200.000 đồng. Thanh toán một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Bị đơn công ty NK vắng mặt không lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan và không có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận T, Thành phố H tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm như sau:
+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đều tuân theo đúng pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo nguyên tắc xét xử, thành phần Hội đồng xét xử đúng quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về việc giải quyết vụ án của Hội đồng xét xử: Đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Căn cứ đơn khởi kiện ngày 10 tháng 8 năm 2022 của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp hợp đồng dịch vụ theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Công ty NK có trụ sở hoạt động (theo công văn số 382/ĐKKD-T6 ngày 13/01/2023 của Sở Kế hoạch và đầu tư Thành phố H) tại quận T nên Tòa án nhân dân quận T, Thành phố H giải quyết là phù hợp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2].Về thủ tục tố tụng:
Bị đơn công ty NK đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định tại các Điều 171; Điều 177, Điều 179; Điều 196, Điều 208, Điều 220; Điều 233 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhưng bị đơn đều vắng mặt không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan và không có yêu cầu giải quyết vắng mặt theo quy định. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[3]. Về yêu cầu của đương sự:
Công ty NK không có mặt tại Tòa án để trình bày lời khai và cung cấp chứng cứ cũng như vắng mặt tại phiên tòa hôm nay mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào yêu cầu, chứng cứ, tài liệu của nguyên đơn nộp và Tòa án thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án, để xem xét giải quyết.
Theo Phiếu hạng mục – kiểm tra ngày 25/7/2022 do công ty NK phát hành, lời trình bày của nguyên đơn và sự xác nhận của ông Ngô Đức Tâm là nhân viên công ty NK (theo Biên bản ghi nhận sự việc ngày 27/7/2023 của Tòa án nhân dân quận T), Hội đồng xét xử nhận thấy có đủ căn cứ xác định giữa nguyên đơn và bị đơn đã xác lập quan hệ hợp đồng dịch vụ được Bộ luật Dân sự 2015 điều chỉnh từ Điều 513 đến Điều 521, cụ thể là dịch vụ sửa chữa thay thế linh kiện máy lạnh nhãn hiệu Dakin, nội dung trên Phiếu thể hiện nguyên đơn đã tạm ứng số tiền 1.200.000 đồng. Nay bị đơn không thực hiện thỏa thuận giữa các bên cũng như không hoàn trả số tiền tạm ứng nên nguyên đơn yêu cầu hoàn trả số tiền tạm ứng 1.200.000 đồng.
Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, bị đơn công ty NK nhận được thông báo thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng không có ý kiến phản đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không gửi văn bản trình bày ý kiến cho Tòa án cũng như không giao nộp bất kỳ tài liệu, chứng cứ chứng minh việc đã thanh toán số tiền 1.200.000 đồng cho nguyên đơn.
Mặt khác, tại Biên bản ghi nhận sự việc ngày 27/7/2023 của Tòa án nhân dân quận T thể hiện: sau khi bà T khởi kiện, công ty NK có liên hệ đề nghị bà T cung cấp số tài khoản ngân hàng để công ty hoàn trả số tiền tạm ứng 1.200.000 đồng nhưng bà T không đồng ý nên phía công ty NK không thể hoàn lại tiền cho bà T.
Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu đòi lại 1.200.000 đồng tiền tạm ứng của nguyên đơn.
Về thời hạn thanh toán: Hội đồng xét xử xét thấy, do công ty NK chưa hoàn trả được số tiền tạm ứng đã nhận cho nguyên đơn, quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị ảnh hưởng nên bà T khởi kiện yêu cầu thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật là có cơ sở chấp nhận.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn công ty NK có trách nhiệm hoàn lại số tiền tạm ứng 1.200.000 đồng theo Phiếu hạng mục – kiểm tra ngày 25/7/2022 cho bà Văn Thị Diễm T. Thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
[4]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận T về việc giải quyết vụ án là có cơ sở, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên công ty NK phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Hoàn trả toàn bộ số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng cho bà Văn Thị Diễm T.
Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:
QUYẾT ĐỊNH
- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 179; Điều 227; Điều 228; các Điều 264, 266, 267, 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Điều 468 và Điều 513 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Văn Thị Diễm T Buộc Công ty NK có trách nhiệm hoàn lại cho bà Văn Thị Diễm T số tiền 1.200.000 đồng theo Phiếu hạng mục – kiểm tra ngày 25/7/2022.
Thời hạn và phương thức thanh toán: Một lần, ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Công ty NK phải nộp số tiền án phí là 300.000 đồng Hoàn trả toàn bộ số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng cho bà Văn Thị Diễm T theo biên lai thu số 0036595 ngày 08/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận T, Thành phố H.
Thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
3. Quyền kháng cáo:
Nguyên đơn bà Văn Thị Diễm T được kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn Công ty NK được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 395/2023/DS-ST
Số hiệu: | 395/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 02/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về