Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 36/2018/KDTM-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 36/2018/KDTM-PT NGÀY 03/01/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ

Ngày 03 tháng 01 năm 2018, tại Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 126/2017/TLPT-KDTM ngày 30 tháng 10 năm 2017 về tranh chấp hợp đồng dịch vụ.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 106/2017/KDTM-ST ngày 25-9-2017 của Toà án nhân dân quận Bình Tân bị kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2742/2017/QĐ-PT ngày 28 tháng 11 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 7166/2017/QĐ- PT ngày 19-12-2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần HBB

Địa chỉ: 18A đường C, Phường C1, quận C2, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Thanh V, sinh năm 1992

Ông V có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 19-12-2017

- Bị đơn: Công ty TNHH MTV MB

Địa chỉ: 124 Đường số 6, phường B, quận B1, TP. Hồ Chí Minh

Đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thị Kim Y, sinh năm 1992

Bà Y có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 19-12-2017

NỘI DUNG VỤ ÁN

I) Tóm tắt nội dung vụ án theo bản án sơ thẩm:

1- Đại diện Nguyên đơn trình bày:

Về yêu cầu khởi kiện:

Công ty Cổ phần HBB (sau đây gọi tắt là Công ty HBB) và Công ty TNHH một thành viên MB (tên cũ: Công ty TNHH một thành viên HH, sau đây gọi tắt là Công ty MB) có ký Hợp đồng cung cấp và sử dụng dịch vụ vận chuyển số 193/2015/HĐDV-247 ngày 15-6-2015, kèm theo các Phụ lục hợp đồng số PL01/193/2015/HĐDV-247 và PL02/193/2015/HĐDV-247 với nội dung cung cấp dịch vụ chuyển phát nhanh trong nước, vận chuyển đường bộ trong nước và chuyển phát nhanh quốc tế. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty MB đã có sự vi phạm trong việc thanh toán tiền cước phí và cố tình trì hoãn việc thanh toán tiền cước phí tháng 3-2016, tháng 4-2016, tháng 5-2016. Cụ thể:

- Cước chuyển phát tháng 03-2016, số tiền là 107.010.719 đồng (các hóa đơn số 0016810, 0016811, 0016812 ngày 25-4-2016);

- Cước chuyển phát tháng 4-2016, số tiền là 190.195.618 đồng (các hóa đơn số 0019968, 0019969, 0019970, 0019971, 0019973 ngày 30-5-2016);

- Cước chuyển phát tháng 5-2016, số tiền là 130.968.390 đồng (chưa xuất hóa đơn VAT).

Mặc dù đã nhiều lần nhắc nhở nhưng Công ty MB vẫn chưa thanh toán số nợ trên cho Công ty HBB.

Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn: Theo phụ lục hợp đồng số PL02/193/2015/HĐDV-247 thì cách tính của Công ty HBB là đúng, cụ thể: nếu vận chuyển 30kg đi Bình Dương thì cước là 105.263 đồng + 10kg x 3.158 đồng. Liên quan đến email do bà Hồ Thị K gửi cho phía bị đơn về việc điều chỉnh lại giá cước, đây không phải là văn bản do giám đốc công ty ký và bà K chỉ là nhân viên của công ty nên không có quyền hạn trong vấn đề này.

Theo hợp đồng đã ký giữa hai bên không thỏa thuận về phụ phí xăng dầu chỉ quy định tại Điều 6 “cập nhật các thông tin về dịch vụ và tiện ích dịch vụ của bên B qua trang web: http://www.247post.vn thì phụ phí xăng dầu là 20%. Ngoài ra phía bị đơn đã không khiếu nại trong thời hạn quy định tại Điều 8 của hợp đồng nên yêu cầu về việc hoàn trả tiền chênh lệch và phụ phí xăng dầu của bị đơn là không có cơ sở.

Về phí nhiên liệu: theo chính sách và tính toán chi phí của công ty, phụ thuộc vào nhiều yếu tố: cạnh tranh của các đối thủ trên thị trường (những đối thủ cùng phân khúc, có khả năng cạnh tranh trực tiếp), giá nhiên liệu có thay đổi, các chi phí khác có ảnh hưởng đến giá cả (chi phí nhận, chi phí phát)... được áp dụng cho tất cả các khách hàng của công ty.

Về yêu cầu bồi thường thiệt hại do mất hóa đơn VAT:

Phía nguyên đơn xác nhận trong quá trình vận chuyển có làm mất hai hóa đơn VAT số 1864 và 1865 của Công ty MB và chỉ đồng ý bồi thường số tiền 500.000 đồng theo quy định tại Điều 8 khoản 8.3 của Hợp đồng cung cấp và sử dụng dịch vụ vận chuyển số 193/2015/HĐDV-247 vì Công ty MB chỉ sử dụng dịch vụ chuyển phát thông thường cả hai hóa đơn chỉ bằng một bưu gửi với giá 18.788 đồng, chứ không sử dụng dịch vụ hóa đơn tài chính với giá cước 20.000 đồng/bill nên không có cơ sở đòi bồi thường 15.000.000 đồng. Công ty 247 xác định không có chứng cứ chứng minh Công ty MB chỉ sử dụng dịch vụ chuyển phát thông thường với giá 18.788 đồng. Vì vậy, Công ty HBB không đồng ý với yêu cầu phản tố của Công ty MB.

Công ty Cổ phần HBB giữ nguyên yêu cầu đòi Công ty TNHH MTV MB trả cho Công ty cổ phần HBB số tiền còn nợ gồm: tiền cước chuyển phát của tháng 3,4,5-2016 là 428.174.727 đồng và tiền lãi tính đến ngày 21-9-2017 là 37.957.662 đồng, trong đó:

- Tiền lãi của cước chuyển phát tháng 3-2016, tính từ ngày 01-5-2016 đến 21-9-2017: 107.010.719 đồng x 16 tháng 21 ngày x 9,75%/năm = 14.520.016 đồng;

- Tiền lãi của cước chuyển phát tháng 4-2016, tính từ ngày 06-6-2016 đến ngày 21-9-2016: 190.195.618 đồng x 15 tháng 5 ngày x 9,75%/năm = 23.437.646 đồng.

Yêu cầu trả một lần khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

2- Đại diện bị đơn trình bày:

Xác nhận ngày 15-6-2015, Công ty HBB và và Công ty TNHH MTV MB (tên cũ: Công ty TNHH một thành viên HH) có ký kết Hợp đồng cung cấp và sử dụng dịch vụ vận chuyển số 193/2015/HĐDV-247, kèm theo các Phụ lục hợp đồng số PL01/193/2015/HĐDV-247 và PL02/193/2015/HĐDV-247 với nội dung như trình bày của nguyên đơn là đúng.

Công ty MB xác nhận khối lượng vận chuyển do Công ty 247 đã thực hiện. Tuy nhiên Công ty MB không đồng ý với cách tính cước phí vận chuyển của Công ty HBB.

Theo quy định tại khung giá tại phụ lục hợp đồng số PL02/193/2015/HĐDV-247 thì Công ty MB hiểu như sau:

- Nếu vận chuyển 7kg thì sẽ chịu khung giá một là 105.263 đồng;

- Nếu vận chuyển 25 kg thì sẽ nằm ở khung giá hai, phí vận chuyển như sau: 25kg x 3.158 đồng = 78.950 đồng;

- Nếu vận chuyển 160kg thì sẽ nằm ở khung giá ba, phí vận chuyển như sau: 160kg x 2.526 đồng = 404.160 đồng.

Nhưng phía Công ty HBB tính gian lận về số kg như sau:

- Nếu vận chuyển 7kg thì sẽ chịu khung giá một là 105.263 đồng;

- Nếu vận chuyển 25 kg thì: 20kg đầu sẽ chịu mức phí là 105.263 đồng, 5kg còn lại sẽ chịu mức giá theo khung giá hai, phí vận chuyển như sau: 5kg x 3.158 đồng = 15.790 đồng;

Tổng 105.263đ + 15.790 đồng = 121.063 đồng. Như vậy số tiền sẽ bị chênh lệch so với cách tính ban đầu là: 121.053 đồng – 78.950 đồng = 42.103 đồng;

- Nếu vận chuyển 160kg thì: 20kg đầu sẽ chịu mức phí là 105.263 đồng, 140kg còn lại sẽ chịu mức giá theo khung ba: 140kg x 2.526 đồng = 353.640 đồng.

- Tổng 105.263 đồng + 353.640 đồng = 458.903 đồng. Như vậy số tiền sẽ bị chênh lệch so với cách tính của nguyên đơn là: 458.903 đồng - 404.160 đồng = 54.743 đồng.

Phía bị đơn đã kê khai cho các hóa đơn VAT do nguyên đơn xuất, chỉ có các hóa đơn VAT của tháng 3 và 4-2016 chưa kê khai, hóa đơn VAT của tháng 5-2016 phía nguyên đơn chưa xuất cho bị đơn. Công ty MB không đồng ý với cách tính cước phí vận chuyển của Công ty 247 vì theo như khung giá cước trên, Công ty MB có vận chuyển như thế nào thì trước tiên sẽ mất tiền cước trước 20kg, sau đó còn lại số lượng bao nhiêu thì mới tính giá theo từng khung . Sau khi kiểm tra lại, từ tháng 5-2016 Công ty MB đã có yêu cầu điều chỉnh lại cách tính và hoàn trả tiền chênh lệch từ tháng 6-2015 đến tháng 5-2016, nhưng Công ty HBB chỉ chấp nhận điều chỉnh lại cách tính trên từ thời điểm tháng 01-2016 đến tháng 5-2016 và đã chênh lệch số tiền là 123.081.697 đồng.

Công ty MB có yêu cầu phản tố:

- Hoàn trả tiền chênh lệch đã thanh toán từ tháng 6-2015 đến tháng 02- 2016 là 93.102.184 đồng.

- Trừ lại tiền chênh lệch chưa thanh toán đối với số tiền còn nợ từ tháng 3- 2016 đến tháng 5-2016 là 29.979.513 đồng.

- Bồi thường thiệt hại do hành vi làm thất lạc hóa đơn mà công ty MB phải nộp phạt cho Nhà nước là 15.000.000 đồng;

- Tính lại phụ phí xăng dầu từ 20% xuống 10% từ tháng 01-2016 đến tháng 5-2016 là 51.013.000 đồng do giá xăng dầu đã được Nhà nước điều chỉnh giảm nhưng phía nguyên đơn không giảm, tuân theo quy định và cam kết giữa hai bên trên trang web công khai về phụ phí xăng dầu của nguyên đơn là giá xăng dầu nhà nước tăng giảm thì công ty 247 sẽ tính lại về mức phụ phí xăng dầu.

II) Quyết định của bản án sơ thẩm:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

Buộc Công ty TNHH một thành viên MB phải có trách nhiệm thanh toán cho Công ty cổ phần HBB số tiền còn nợ tổng cộng là 466.132.389 đồng trong đó gồm tiền cước phát chuyển nhanh 428.174.727 đồng và tiền lãi tính đến ngày 21-9-2017 là 37.957.662 đồng. Thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty TNHH MTV MB: Buộc Công ty Cổ phần HBB có trách nhiệm bồi thường cho Công ty TNHH MTV MB số tiền 10.000.000 đồng do làm thất lạc hóa đơn.

3. Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty TNHH MTV MB về việc yêu cầu Công ty Cổ phần HBB hoàn trả tiền chênh lệch đã thanh toán từ tháng 6-2015 đến tháng 02-2016 là 93.102.184 đồng, trừ lại tiền chênh lệch chưa thanh toán đối với số tiền còn nợ từ tháng 3-2016 đến tháng 5-2016 là 29.979.513 đồng, tính lại phụ phí xăng dầu từ 20% xuống 10% từ tháng 01-2016 đến tháng 5-2016 là 51.013.000 đồng.

Thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Thi hành án tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Bản án sơ thẩm còn tuyên trách nhiệm thi hành án, nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

III) Kháng nghị Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân kháng nghị bản sơ thẩm số 106/2017/KDTM-ST ngày 25-9-2017 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân vơi với nội dung: Xem xét lại một phần bản án sơ thẩm về áp dụng qui định pháp luật để tính lãi suất và tính án phí.

IV) Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các đương sự không kháng cáo và đại diện đều có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm.

Căn cứ Khoản 2 điều 296 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015, Tòa án tiến hành phiên tòa phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt họ.

V- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

1) Về tố tụng:

- Về thụ lý vụ án; thời hạn chuẩn bị xét xử; thời hạn chuyển hồ sơ; cấp và tống đạt bản án trong giai đoạn phúc thẩm theo qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử: Hội đồng xét xử phúc thẩm đã thực hiện đúng qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Việc chấp hành pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng khác trong giai đoạn thụ lý và chuẩn bị xét xử tuân theo những qui định tại của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

2) Về kháng nghị:

- Kháng nghị đối với mức lãi suất:

Tranh chấp trong vụ án là tranh chấp kinh doanh thương mại được qui định tại Khoản 1 Điều 30 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015. Như vậy, khi Công ty MB nợ tiền hàng nhưng không thanh toán thì Công ty HBB có quyền yêu cầu đòi lại tiền cước vận chuyển và tiền lãi chậm thanh toán theo qui định tại điều 306 Luật Thương mạiÁn lệ số 09/2016/AL được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17-10-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao. Tuy nhiên, khi tuyên án Hội đồng xét xử lại căn cứ Quyết định 1425/QĐ-NHNN ngày 07-7-2017 của Thống đốc Ngân hàng là không có cơ sở làm ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của các đương sự.

- Kháng nghị về án phí:

Bản án sơ thẩm tuyên chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn nhưng không xác định nghĩa vụ chịu án phí của Công ty HBB là vi phạm Khoản 2 điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.

Căn cứ Khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015, đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; nghe ý kiến tranh luận của các đương sự; nghe ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] - Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 512/QĐKNPT-VKS-DS ngày 19-10-2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân trong thời hạn qui định của pháp luật nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] - Về thủ tục triệu tập:

Các đương sự không kháng cáo và đại diện đều có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm.

Căn cứ Khoản 2 điều 296 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015, Tòa án tiến hành phiên tòa phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt họ.

[3] - Về nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân quận Bình Tân

3.1- Về mức tính lãi suất chậm thanh toán

Khoản 4.2 trong Hợp đồng cung cấp và sử dụng dịch vụ vận chuyển số 193/2015/HĐDV-247 ngày 15-6-2015, các bên thỏa thuận: nếu bên A chậm thanh toán so với thời gian trên, thì bên A phải chịu lãi suất phạt trên số tiên trả chậm theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam qui định.

Quyết định số 1425/QĐ-NHNN ngày 07-7-2017 của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam về mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng là 6,5%/năm, lãi suất quá hạn sẽ là 9,75%/năm.

Điều 306 Luật thương mại qui định: Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định khác.

Tòa án quận Bình Tân mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án vào ngày 21 và 25 thàng 9 năm 2017, tham khảo mức lãi suất của một số ngân hàng trong thời điểm này như sau:

- Ngân hàng TMCP công thương Việt nam 10%/năm - Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam- CN Thành phố Hồ Chí Minh 10,8%/năm - Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín 10,7%/năm Như vậy, lãi suất trung bình là 10,66%/năm Trong đơn sửa đổi, bổ sung nội dung khởi kiện của nguyên đơn ngày 20- 9-2017 và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn yêu cầu mức lãi phạt chậm thanh toán đối với bị đơn là 9,75%/năm là thấp hơn mức lãi suất được qui định theo Điều 306 Luật Thương mại là có lợi, không ảnh đến quyền lợi của bị đơn. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đòi bị đơn trả lãi phạt chậm thanh toán mức 9,75%/năm là có căn cứ, phù hợp qui định của pháp luật.

Với những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân quận Bình Tân về mức tính lãi suất chậm thanh toán.

3.2- Về tính án phí đối với yêu cầu phản tố:

Bản án sơ thẩm tuyên chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn là Công ty MB nhưng không xác định nghĩa vụ chịu án phí của Công ty HBB là vi phạm Khoản 2 điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27-02-2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội nên kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân là có cơ sở được chấp nhận.

[4] - Về án phí:

4.1- Án phí sơ thẩm:

Công ty TNHH một thành viên MB phải chịu án phí sơ thẩm trên số tiền phải thanh toán cho Công ty cổ phần HBB.

Công ty cổ phần HBB phải chịu án phí sơ thẩm trên số tiền phải thanh toán cho Công ty TNHH một thành viên MB.

4.2- Án phí phúc thẩm: Do Viện kiểm sát kháng nghị nên đương sự không phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tân, Căn cứ Khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự 2015,

1. Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Sửa một phần bản án sơ thẩm về án phí, cụ thể như sau:

1.1) Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

Buộc Công ty TNHH một thành viên MB phải có trách nhiệm thanh toán cho Công ty cổ phần HBB số tiền còn nợ tổng cộng là 466.132.389 đồng trong đó gồm tiền cước phát chuyển nhanh là 428.174.727 đồng và tiền lãi tính đến ngày 21-9-2017 là 37.957.662 đồng. Thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

1.2) Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty TNHH MTV MB:

Buộc Công ty Cổ phần HBB có trách nhiệm bồi thường cho Công ty TNHH MTV MB số tiền 10.000.000 đồng do làm thất lạc hóa đơn.

1.3) Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty TNHH một thành viên MB về việc yêu cầu Công ty cổ phần HBB hoàn trả tiền chênh lệch đã thanh toán từ tháng 6-2015 đến tháng 02-2016 là 93.102.184 đồng, trừ lại tiền chênh lệch chưa thanh toán đối với số tiền còn nợ từ tháng 3-2016 đến tháng 5- 2016 là 29.979.513 đồng, tính lại phụ phí xăng dầu từ 20% xuống 10% từ tháng 01-2016 đến tháng 5-2016 là 51.013.000 đồng.Thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Việc thi hành án được thực hiện tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thanh toán xong số tiền phải thi hành thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2) Về án phí:

- Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:

Công ty TNHH một thành viên MB phải chịu án phí sơ thẩm là 31.600.029 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 4.727.367 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0000935 ngày 09-8-2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, Công ty TNHH một thành viên MB còn phải nộp thêm 26.872.662 đồng.

Công ty cổ phần HBB phải chịu án phí sơ thẩm là 3.000.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.905.170 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0000958 ngày 11-8-2017 và 10.563.494 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0001325 ngày 07- 11-2016 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, Công ty cổ phần HBB còn được nhận lại 9.468.664 đồng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014.

Án phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng dịch vụ số 36/2018/KDTM-PT

Số hiệu:36/2018/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 03/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về