TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THANH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 267/2023/DS-ST NGÀY 10/10/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC, TRANH CHẤP DI SẢN THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT
Trong ngày 06 và ngày 10 tháng 10 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 418/2020/TLST-DS ngày 01 tháng 12 năm 2020 về “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc, Tranh chấp di sản thừa kế quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 748/2023/QĐXX-ST ngày 28/8/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 303/2023/QĐST-DS ngày 29/9/2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: 1/ Ông Nguvễn Thành T
2/ Bà Nguyễn Thị Ái T1 Cùng địa chỉ: Số A đường C, phường X, quận N, thành phố Cần Thơ.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Theo văn bản ủy quyền ngày 19/10/2022):
1/ Ông Lê Tuấn K (Có mặt);
2/ Phan Nguyễn Hoa T2 (Có mặt);
Địa chỉ: Số A T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
- Bị đơn:
1/ Ông Trần Văn M (Đã chết) - Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Trần Văn M: Bà Nguyễn Thị Hồng M1 (Vợ) và ông Trần Nguyễn Anh Đ (Con)
2/ Bà Nguyễn Thị Hồng M1 (Có mặt) Địa chỉ: Số A đường C, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.
3/ Ông Trần Nguvễn Anh Đ (Có mặt) Địa chỉ: Số A đường C, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.
Địa chỉ liên hệ: Xã T, thị xã B, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Nguyễn Anh Đ và bà Nguyễn Thị Hồng M1: Bà Mã Thúy M2 (Có mặt) Địa chỉ: Số C, Khu dân cư H, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Nguyễn Thị Thu T3 (Đã có yêu cầu giải quyết vắng mặt) HKTT: Ấp N, xã N, huyện P, thành phố Cần Thơ.
Địa chỉ liên hệ: Số A đường C, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.
2/ Bà Nguyễn Thị Hồng C, sinh năm 1958; (Có mặt) Địa chỉ: Số A N, phường T, quận N, thành phố Cần Thơ.
3/ Ông Nguyễn Hữu C1, sinh năm 1950 (Vắng mặt) Địa chỉ: Đường T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
Địa chỉ liên hệ: Số B đường C tháng D, khu V, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
4/ Bà Nguyễn Thị Hồng L, sinh năm 1954; (Có mặt) Địa chỉ: Số G đường C tháng D, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án phía nguyên đơn trình bày:
Ngày 20/11/2019, ông Nguyễn Thành T và bà Nguyễn Thị Ái T1 tiến hành ký kết với ông Trần Văn M, bà Nguyễn Thị Hồng M1 Hợp đồng đặt cọc để đảm bảo cho việc chuyển giao bất động sản là toàn bộ nhà và đất thuộc thửa số 252, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại số A đường C, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ. Nhà đất này do cha mẹ của phía Bị đơn để lại, phía Bị đơn sử dụng từ trước cho đến nay tuy chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng có tên trong sổ mục kê và Hồ sơ trích đo địa chính số 1342/VP-ĐKQSDĐ ngày 13/5/2011 của Văn phòng Đăng ký Quyền sử dụng đất quận N đều thể hiện bị đơn là người đứng tên chủ sử dụng. Đồng thời, phía Bị đơn còn cam kết sẽ hoàn thành các thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần tài sản này nên phía nguyên đơn đã đồng ý mua phần tài sản nhà đất trên với giá thỏa thuận là 7.700.000.000 đồng (Bảy tỷ bảy trăm triệu đồng).
Để đảm bảo cho việc hai bên thực hiện đúng thỏa thuận nên khi tiến hành ký Hợp đồng đặt cọc và giao nhận tiền cọc. Hai bên đã yêu cầu thừa phát lại lập Vi bằng số 643/2016/VB-TPL tại Văn phòng T4 ngày 20/11/2019 để ghi nhận nội dung thỏa thuận đặt cọc và ý chí giữa các bên mua Nguyên đơn, bên bán là vợ chồng ông M, bà M1, bên có nghĩa vụ liên quan ông Trần Nguyễn Anh Đ (Con của ông M và bà M1).
Ông M, bà M1 đã nhận đủ số tiền cọc là 1.700.000.000 đồng (Một tỷ bảy trăm triệu đồng) có sự chứng kiến của ông Trần Nguyễn Anh Đ và Thừa phát lại. Thời hạn đặt cọc là 12 tháng kể từ ngày 20/11/2019. Số tiền 6.000.000.000 đồng (Sáu tỷ đồng) còn lại sẽ được thanh toán ngay khi Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất được công chứng tại cơ quan công chứng có thẩm quyền.
Các bên đều có cam kết dự liệu tại khoản 3 Điều 2 của Hợp đồng đặt cọc ngày 20/11/2019 với nội dung cụ thể: “Đúng ngày 20/11/2020, bên chuyển nhượng (bên bán) có trách nhiệm bàn giao lại căn nhà và đất cho bên nhận chuyển nhượng (bên mua) dù cho bên chuyển nhượng (bên bán) đã hoàn thành được việc hợp thức hóa được tài sản chuyển nhượng hay chưa hoàn thành hợp thức hóa được tài sản chuyển nhượng nói trên”. Tuy nhiên, đến ngày 20/11/2020, phía bị đơn vẫn chưa hợp thức hóa, đăng ký được quyền sở hữu toàn bộ tài sản nhà đất nói trên và cũng không chịu bàn giao nhà đất cho Nguyên đơn theo đúng thỏa thuận.
Sau khi nhận số tiền đặt cọc 1.700.000.000 đồng phía bị đơn đã sử dụng toàn bộ số tiền này để di mua toàn bộ phần nhà đất thuộc thửa đất số 235, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại xã T, thị xã B, tỉnh Vĩnh Long cho con trai Trần Nguyễn Anh Đ đứng tên sở hữu. Phần nhà đất này đã được cấp Giấy chứng nhận QSDD, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CU 287323, số vào số CS14166 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh V cấp ngày 17/12/2019 cho ông Trần Nguyễn Anh Đ.
Các bên đều có cam kết dự liệu tại khoản 5 Điều 3 của Hợp đồng đặt cọc ngày 20/11/2019 với nội dung cụ thể là: “Nếu bên bán (bên B) không chuyển được cho bên mua (bên A) thì bên B có trách nhiệm bồi thường số tiền là 8.500.000.000 đồng (Tám tỷ năm trăm triệu đồng); Trong số tiền Tám tỷ năm trăm triệu đồng này thì bên B có trách nhiệm giao lại căn nhà mà bên B đã mua từ tiền đặt cọc của bên A trước, sau đó trả đủ tiền bồi thường còn lại." (Điều này được các bên dự liệu hiểu là Số tiền đảm bảo cho nghĩa vụ phạt cọc 8.500.000.000 đồng (Tám tỷ năm trăm triệu đồng) là toàn bộ phần nhà đất thuộc thửa đất số 235, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại xã T, thị xã B, tỉnh Vĩnh Long chiếu theo Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CV 287323, số vào sổ CS14166 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh V cấp ngày 17/12/2019 cho ông Trần Nguyễn Anh Đ & quyền sở hữu tài sản của ông M, bà M1 tại Căn nhà & đất thuộc thửa số 252, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại số A đường C, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ).
Phía bị đơn và ông Trần Nguyễn Anh Đ đã có chỗ ở khác mua bằng nguồn tiền của Nguyên đơn giao nhưng vẫn không chịu giao nhà đất số 146 như đã thỏa thuận cho Nguyên đơn. Mặc dù Nguyên đơn đã nhiều lần liên hệ để yêu cầu phía Bị đơn nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ của mình nhưng phía Bị đơn vẫn không thực hiện, mà còn cố tình ký Hợp đồng cho thuê một phần căn nhà nêu trên với bà Nguyễn Thị Thu T3 vào ngày 15/03/2021. Hành vi này là cố tình né tránh thực hiện nghĩa vụ giao nhà (hoặc bồi thường tiền cọc bằng khoản tiền 8.500.000.000 đồng) đối với nguyên đơn.
Nguyên đơn đã khởi kiện phía bị đơn đến Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều để yêu cầu giải quyết vấn đề cụ thể sau:
- Buộc phía Bị đơn tiếp tục thực hiện Hợp đồng đặt cọc ngày 20/11/2019 theo hướng giao cho phía Nguyên đơn toàn bộ nhà và đất thuộc thửa số 252, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại A đường C, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ”.
Quá trình giải quyết, nguyên đơn có yêu cầu khởi kiện bổ sung, theo đó yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết trường hợp không tiếp tục thực hiện hợp đồng thì buộc phía bị đơn là ông Trần Văn M, bà Nguyễn Thị Hồng M1 và ông Trần Nguyễn Anh Đ phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường số tiền phạt cọc theo đúng cam kết là 8.500.000.000 đồng (Tám tỷ năm trăm triệu đồng) vì đã hết thời hạn đặt cọc, bên nhận cọc đã vi phạm toàn các nghĩa vụ theo hợp đồng đặt cọc đã ký kết ngày 20/11/2019.
Trong quá trình giải quyết vụ án phía bị đơn trình bày:
Thừa nhận có ký kết hợp đồng đặt cọc với phía nguyên đơn ông Nguyễn Thành T và bà Nguyễn Thị Ái T1 vào ngày 20/11/2019. Phía bị đơn yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng với phía nguyên đơn ông T, bà T1. Yêu cầu phía nguyên đơn phải thanh toán hết phần tiền còn lại đối với việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên.
Bị đơn cho rằng, tài sản nhà và đất tại số A đường C tháng D, phường A là tài sản hợp pháp của bị đơn. Nguồn gốc tài sản, do cha mẹ bị đơn là ông Nguyễn Văn B (Chết năm 1985) và bà Trần Thị M3 (Chết năm 1990). Thời gian chung sống, cha mẹ có 05 người con gồm Nguyễn Thị Hồng H (Đã chết ngày 25/10/2022), ông Nguyễn Hữu C1, bà Nguyễn Thị Hồng L, Nguyễn Thị Hồng C và Nguyễn Thị Hồng M1. Tài sản nêu trên do ông B và bà M3 tạo lập, khi ông bà chết không lập di chúc. Bị đơn sinh sống từ nhỏ, cho đến khi cha mẹ qua đời thì là người trực tiếp quản lý, sử dụng. Bị đơn yêu cầu áp dụng thời hiệu và cho rằng, tài sản nhà và đất tại số A đường C tháng D, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ đã hết thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế đối với bất đồng sản là 30 năm do đó tài sản trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị đơn. Yêu cầu phản tố của bị đơn, đề nghị Tòa án công nhận nhà và đất có diện tích 173,9m2 thuộc thửa đất số 252; tờ bản đồ số 16; tọa lạc tại địa chỉ số A đường C tháng D, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ là tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng hợp pháp của bị đơn. Bị đơn đồng ý chịu phần tiền thuế thu nhập cá nhân đối với việc chuyển nhượng quyền sử dụng nhà và đất cho nguyên đơn.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Hằng L, Nguyễn Thị Hồng C (Có yêu cầu độc lập) và Ông Nguyễn Hữu C1 có ý kiến trình bày:
Nhà và đất tại địa chỉ số A đường C tháng D, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ là di sản thừa kế của cha mẹ chết để lại. Gia đình có 05 anh chị em gồm: Nguyễn Hữu C1, Nguyễn Thị Hồng H (Đã chết, không chồng, không con), Nguyễn Thị Hồng L, Nguyễn Thị Hồng C và Nguyễn Thị Hồng M1. Nhà và đất tại số A đường C tháng 4 là nhà hương hỏa, không phải là tài sản riêng của ông Trần Văn M, bà Nguyễn Thị Hồng M1 hay ông Trần Nguyễn Anh Đ. Không đồng ý đối với việc ký kết đặt cọc, chuyển nhượng nhà và đất của ông ông M và M1. Việc bà M1, ông M tự nhận cọc thì phía bị đơn phải tự chịu trách nhiệm. Yêu cầu Tòa án công nhận nhà và đất nêu trên thuộc sở hữu và sử dụng chung của các anh em gồm ông Nguyễn Hữu C1, bà Nguyễn Thị Hồng L, bà Nguyễn Thị Hồng C và bà Nguyễn Thị Hồng M1.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thu T3 trình bày: Bà thuê một phần căn nhà số A đường 30 tháng 4, bên cho thuê là bà Nguyễn Thị Hồng M1, với giá thuê mỗi tháng 10.000.000 đồng, đặt cọc trước 20.000.000 đồng thanh toán trước tiền thuê một tháng, thời gian thuê là 03 năm. Bà T3 thuê để kinh doanh hoa tươi. Đối với sự việc tranh chấp giữ nguyên đơn và bị đơn, bà T3 không có ý kiến, do việc tranh chấp hiện không có ảnh hưởng đến bà nên bà không có yêu cầu gì khác, hơn nữa giữa bà và phía bà M1 có ký kết hợp đồng thuê nên khi có phát sinh tranh chấp hoặc ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của bà thì phía bà T3 sẽ yêu cầu cầu. Bà Nguyễn Thị Thu T3 có ý kiến được vắng mặt trong các buổi làm việc, giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa;
Phía nguyên đơn cho rằng: Nếu không tiếp tục thực hiện hợp đồng thì yêu cầu bị đơn phải bồi thường 8.500.000.000 đồng (Tám tỷ năm trăm triệu đồng) cho nguyên đơn ông Nguyễn Thành T và bà Nguyễn Thị Ái T1. Nếu phía bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng M1 và ông Trần Văn M đủ điều kiện công nhận nhà và đất. Đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng và nguyên đơn chịu thuế trước bạ, bị đơn chịu thuế thu nhập cá nhân đối với việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nguyên đơn được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sử dụng đối với nhà và đất nêu trên, đồng ý tiếp tục thanh toán 6.000.000.000 đồng (Sáu tỷ đồng) còn lại cho bị đơn.
Phía bị đơn trình bày, tài sản nhà và đất tại số A đường C tháng D, phường A, quận N, thành phố cần Thơ đã hết thời hiệu thừa kế theo yêu cầu của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, phía bị đơn bà M1 và ông M khai nhận theo sổ mục kê phường A ghi nhận, yêu cầu công nhận nhà và đất thuộc quyền sở hữu của bị đơn. Bị đơn đồng ý giao quyền sử dụng đất và nhà trên đất cho nguyên đơn. Thống nhất, việc nguyên đơn liên hệ cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, nguyên đơn phải thanh toán số tiền 6.000.000.000 đồng (Sáu tỷ đồng) cho bị đơn. Phía bị đơn đồng ý chịu phần tiền thuế trước thu nhập cá nhân đối với việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Hồng C, Nguyễn Thị Hồng L trình bày: Không thống nhất với việc chuyển nhượng nhà và đất tại số A đường C tháng D, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ của nguyên đơn và bị đơn. Ông M không có tư cách ký kết hợp đồng đặt cọc đối với tài sản này, ông M không có quyền thừa kế. Yêu cầu xác định tài sản là nhà và đất tại số A đường C tháng D, phường A, quận N, thành phố cần Thơ là di sản thừa kế của cha mẹ để lại, thuộc quyền sử dụng và sở hữu của chung các anh em gồm ông C1, bà L, bà C và bà M1.
* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:
- Về tuân theo pháp luật tố tụng:
+ Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.
+ Đương sự thực hiện đúng theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung:
+ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Thành T, bà Nguyễn Thị Ái T1 và chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng M1. Ghi nhận sự tự thỏa thuận của nguyên đơn và bị đơn;
+ Bác yêu cầu độc lập của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Hồng L, bà Nguyễn Thị Hồng C.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Nguyên đơn và bị đơn đã ký hợp đồng đặt cọc về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Quá trình thực hiện hợp đồng, các bên phát sinh tranh chấp nên ông Nguyễn Thành T và bà Nguyễn Thị Ái T1 có đơn khởi kiện, bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Do đó, quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp Hợp đồng đặt cọc và Tranh chấp di sản thừa kế quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất”, bị đơn cư trú tại địa chỉ số A đường C tháng D, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm b khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung:
Hội đồng xét xử xét thấy, yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có liên quan. Bị đơn yêu cầu công nhận nhà và đất thuộc quyền sử dụng của bị đơn do thời hiệu thừa kế đã hết. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là bà L và bà C yêu cầu xác định nhà và đất là di sản chung của cha mẹ để lại chưa được phân chia. Hội đồng xét xử xét thấy, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 623 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định về “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản” “Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người đang quản lý di sản đó”.
Trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đều thừa nhận tài sản tranh chấp là của cha mẹ, tức ông Nguyễn Văn B và bà Trần Thị M3 tạo lập. Ông B chết năm 1985, bà M3 chết ngày 06/4/1990 và không để lại di chúc. Các đương sự thừa nhận bị đơn là người trực tiếp quản lý di sản. Hơn nữa, tại Công văn số 94/CN.VPĐKĐĐ ngày 04/02/2021 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký Đất đai quận N và chính quyền địa phương xác nhận bị đơn đang quản lý nhà và đất tại số A đường C tháng D, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ. Năm 2023, bà L, bà C và ông C1 có yêu cầu xác định sở hữu chung đối với quyền sử dụng đất và nhà nêu trên. Vì vậy, thời hiệu khởi kiện đối với nhà và đất tại số A đường C tháng D, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ đã hết. Do đó, yêu cầu phản tố của bị đơn về việc yêu cầu công nhận nhà và đất tại số A đường C tháng D, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ thuộc về bị đơn là có cơ sở chấp nhận.
Yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Hồng C, bà Nguyễn Thị Hồng L là không có cơ sở chấp nhận và hết thời hiệu, do đó Hội đồng xét xử quyết định đình chỉ theo điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Đối với sự thỏa thuận của nguyên đơn và bị đơn không trái pháp luật, đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử công nhận. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận;
- Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thu T3 đã có ý kiến trình bày trong quá trình giải quyết vụ án, nếu có phát sinh tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ kiện khác.
Về chi phí thẩm định: Phía nguyên đơn tự nguyện chịu 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) chi phí thẩm định, khấu trừ vào tiền tạm ứng chi phí thẩm định 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) nguyên đơn đã nộp.
- Về án phí dân sự sơ thẩm:
+ Bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng M1 thuộc trường hợp người cao tuổi, do đó được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm;
+ Bị đơn ông Trần Nguyễn Anh Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu khởi kiện tiếp tục thực hiện hợp đồng của nguyên đơn được chấp nhận, với số tiền án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).
+ Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Hồng L, Nguyễn Thị Hồng C thuộc trường hợp người cáo tuổi nên được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm;
+ Nguyên đơn ông Nguyễn Thành T, bà Nguyễn Thị Ái T1 phải chịu án phí đối với phần nghĩa vụ phải thực hiện đối với bị đơn là 6.000.000.000 đồng (Sáu tỷ đồng). Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn và bị đơn đã thỏa thuận được việc tiếp tục thực hiện hợp đồng và nghĩa vụ nguyên đơn phải trả số tiền trên cho bị đơn. Nhưng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không thống nhất. Do đó, chỉ cần buộc nguyên đơn chịu 50% án phí dân sự sơ thẩm. Cụ thể, ông Nguyễn Thành T, bà Nguyễn Thị Ái T1 phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm là 57.000.000 đồng (Năm mươi bảy triệu đồng). Khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các Biên lai số 003332 ngày 26/11/2020 với số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) và Biên lai số 0000317 ngày 15/11/2022 với số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) của Chi cục Thi hành án Dân sự quận Ninh Kiều, phía nguyên đơn ông Nguyễn Thành T và bà Nguyễn Thị Ái T1 phải nộp 56.400.000 đồng (Năm mươi sáu triệu bốn trăm nghìn đồng) án phí.
Do đó, quan điểm của Kiểm sát viên là phù hợp, có cơ sở chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ vào:
- Khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 97, Điều 147, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;
- Điểm e khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015;
- Khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015;
- Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Điểm đ khoản 1 Điều 12 và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[2] Tuyên xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Thành T và bà Nguyễn Thị Ái T1;
- Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng M1, quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở tại số A đường C tháng D, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ thuộc quyền sử sở hữu của bà Nguyễn Thị Hồng M1;
- Công nhận sự thỏa thuận của nguyên đơn và bị đơn:
+ Nguyên đơn và bị đơn thống nhất, tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc và chuyển nhượng nhà, đất tại số A đường C tháng D, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ. Phần đất có diện tích 173,9m2 (Một trăm bảy mươi ba phẩy chín mét vuông) tại thửa đất số 252; Tờ bản đồ số 16 chiếu theo Bản trích đo địa chính số 137/TTKTTNMT ngày 29/12/2021 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố C;
+ Phía nguyên đơn ông Nguyễn Thành T và bà Nguyễn Thị Ái T1 phải trả số tiền 6.000.000.000 đồng (Sáu tỷ đồng) cho phía bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng M1 và ông Trần Nguyễn Anh Đ;
+ Nguyên đơn ông Nguyễn Thành T và bà Nguyễn Thị Ái T1 được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà theo quy định đối với nhà và đất tại số A đường C tháng D, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ, theo Bản trích đo địa chính số 137/TTKTTNMT ngày 29/12/2021 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường thành phố C;
+ Nguyên đơn ông T và bà T1 chịu thuế trước bạ, bị đơn bà M1 chịu thuế thu nhập cá nhân đối với việc ký kết chuyển nhượng nhà và đất nêu trên;
- Đình chỉ yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Hồng C, bà Nguyễn Thị Hồng L;
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, nếu người bị yêu cầu thi hành án chậm trả số tiền trên thì còn phải chịu lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự, tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án.
[3] Về chi phí thẩm định: Phía nguyên đơn tự nguyện chịu 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng), khấu trừ vào tiền tạm ứng chi phí thẩm định 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) nguyên đơn đã nộp, đã chi xong.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Nguyên đơn ông Nguyễn Thành T và bà Nguyễn Thị Ái T1 chịu 57.000.000 đồng (Năm mươi bảy triệu đồng) án phí. Nguyên đơn được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các Biên lai số 003332 ngày 26/11/2020 với số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) và Biên lai số 0000317 ngày 15/11/2022 với số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) của Chi cục Thi hành án Dân sự quận Ninh Kiều. Nguyên đơn phải nộp thêm 56.400.000 đồng (Năm mươi sáu triệu bốn trăm nghìn đồng) án phí.
- Bị đơn ông Trần Nguyễn Anh Đ phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm;
- Bị đơn bà Nguyễn Thị Hồng M1, người có yêu cầu độc lập bà Nguyễn Thị Hồng L và Nguyễn Thị Hồng C được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày (Mười lăm ngày) kể từ ngày tuyên án (Đương sự vắng mặt tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết) để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc, tranh chấp di sản thừa kế quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 267/2023/DS-ST
Số hiệu: | 267/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 10/10/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về