Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc số 601/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 601/2023/DS-PT NGÀY 12/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC

Ngày 12 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 430/2023/TLPT-DS ngày 24 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 73/2023/DS-ST ngày 30/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 483/2023/QĐ - PT ngày 30 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố H, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1990 (có mặt tại phiên toà).

Trú tại: Khu 3, thị trấn Trạm Trôi, huyện Đ, thành phố H.

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1978 (có mặt tại phiên toà). Trú tại : Khu 4, thị trấn Trạm Trôi, huyện Đ, thành phố H.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Ông Bùi Văn Th và bà Đinh Thị Kim L, đều là Luật sư Công ty Luật TNHH Quốc tế T thuộc Đoàn Luật sư thành phố H (ông Th có mặt, bà L vắng mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Phạm Thị H, sinh năm 1965; trú tại: Số 265 phố Ngọc Lâm, quận B, thành phố H (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Bà Bùi Thị G, sinh năm 1981; trú tại: Khu 4, thị trấn Trạm Trôi, huyện Đ, thành phố H (vắng mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Đơn khởi kiện ngày 09/5/2023, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - ông Nguyễn Minh T trình bày:

Ông T và ông H có mối quan hệ quen biết nhau từ năm 2004. Bà Phạm Thị H là mẹ nuôi của ông. Ông H nhiều lần vay tiền của ông từ năm 2008 cho đến năm 2022 để kinh doanh, vay nhiều khoản lặt vặt nên không nhớ chính xác là đã vay bao nhiêu, khoản vay nhiều thì viết giấy nợ, còn những khoản vay nhỏ thì không viết giấy, khoản vay nhiều nhất là 120.000.000 đồng vào thời điểm nào thì ông T không nhớ, hiện ông H vẫn chưa trả cho ông. Không có khoản vay 50 triệu đồng vào khoảng tháng 5 - 6/2019. Khoảng tháng 5-6/2020, ông H, bà G có nói với ông về việc đã bán cho ông Hoàng Ngọc H tiêu chuẩn đất dịch vụ đối với đất nông nghiệp đã bị thu hồi của ông bà nhưng do chưa thống nhất được giá cả nên nhờ ông mua lại tiêu chuẩn đất dịch vụ đó. Ông H đã giao cho ông H 02 bản chính quyết định thu hồi đất để làm tin. Ông có nói lại với bà Phạm Thị H nhờ bà H mua hộ ông H. Thời điểm đó do chưa có đất dịch vụ được bồi thường nên bà H cũng phân vân. Sau nhiều lần thuyết phục thì bà H đồng ý mua lại tiêu chuẩn đất dịch vụ đó. Bà H cũng yêu cầu ông tìm hiểu xem sau khi gia đình ông H bị thu hồi đất nông nghiệp thì phần đất dịch vụ được bồi thường là bao nhiêu. Ông H có giao cho ông 02 bản phô tô hai quyết định thu hồi đất số 5326 và 5327/9.7.2008 của UBND huyện Đ nên ông đã tìm hiểu thì được biết tiêu chuẩn đất dịch vụ gia đình ông H được bồi thường sau khi thu hồi là 54m2 tại thửa số 330, khu đất dịch vụ sân vận động Đ, thị trấn Trạm Trôi, huyện Đ, H.

Khoảng ngày 20/10/2020, tại nhà bà H, có mặt ông, ông H, bà G, anh V, bà H bàn bạc và thống nhất ông H, bà G chuyển nhượng cho bà H phần diện tích đất dịch vụ được bồi thường là 54m2 tại thửa số 330, khu đất dịch vụ sân vận động Đ, thị trấn Trạm Trôi, huyện Đ, H. Thoả thuận giá là 38.000.000 đồng/m2, thoả thuận đặt cọc 750.000.000 đồng và ký hợp đồng đặt cọc trước khi ký hợp đồng chuyển nhượng. Hai bên thống nhất lập hợp đồng đặt cọc ngày 31/10/2020.

Ngày 31/10/2020, tại số 265 phố Ngọc Lâm, phường Ngọc Lâm, quận B, H, là nhà riêng của bà H, có mặt ông, ông H, bà H, vợ chồng ông Hoàng Ngọc H (do ông H giới thiệu là vợ ông H nhưng ông không biết tên). Ông thấy con trai ông H là Nguyễn Văn V chở ông H ra nhà bà H, sau đó cháu V ngồi ở quán nước chờ ông H. Do bà G bận không xin nghỉ được nên hẹn hôm sau đến ký Hợp đồng đặt cọc.

Tại đây, bà H đã đưa ra Hợp đồng đặt cọc đã soạn sẵn nội dung, còn một số nội dung vẫn để trống. Nội dung để trống là các mục thời gian, địa điểm, thông tin người làm chứng, số tiền đặt cọc, thời hạn đặt cọc, giá bán bằng số, bằng chữ, ngày hợp đồng có hiệu lực.

Hai bên thoả thuận số tiền đặt cọc là 750.000.000 đồng, thời hạn đặt cọc ông H có đề nghị để dài ngày để ông và bà G còn bàn bạc nên bà H nói là để ba tháng cho thoải mái, ông H cũng nhất trí, hai bên thoả thuận đất chuyển nhượng là đất dịch vụ của gia đình ông H sau khi được bồi thường theo hai quyết định trên với giá chuyển nhượng là 38.000.000 đồng/m2.

Bà H đưa ra ba bản hợp đồng đặt cọc có nội dung giống nhau. Hai bên thoả thuận về nội dung còn trống để thống nhất điền vào. Sau khi thống nhất nội dung, ông H tự tay viết vào chỗ nội dung số tiền đặt cọc bằng chữ, bằng số, số tiền đặt cọc ông H ghi là “750.000.000 đ”. Mục bằng chữ, ông H tự ghi là “Bảy trăm năm mươi triệu đồng chẵn. vn”. Sau khi ông H viết nội dung trên thì ông H ký và ghi họ tên ông H vào từng trang của Hợp đồng. Sau đó bà H là người điền các thông tin: ngày tháng năm, địa điểm, người làm chứng, thời hạn đặt cọc, giá bán bằng số, bằng chữ, hợp đồng có hiệu lực và ký vào 02 mục người làm chứng. Sau đó thì ông ký vào trang cuối. Do bà G vắng mặt nên hợp đồng không ghi tên bà G. Cả ba bản hợp đồng đều được thực hiện như vậy. Do chưa có quyết định bồi thường nên tại khoản 1 Điều 3 của Hợp đồng đặt cọc vẫn ghi đất chuyển nhượng là đất nông nghiệp bị thu hồi.

Sau khi ký xong hợp đồng đặt cọc thì bà H cầm cả ba bản hợp đồng để chờ hôm sau bà G lên ký.

Sau khi ký xong thì bà H giao cho ông H 750.000.000 đồng, ông H giao cho ông H 02 bản chính quyết định thu hồi đất của UBND huyện Đ số 5326, 5327/9.7.2008, ông H nhận tiền từ bà H và giao cho bà H hai quyết định này. Sau khi nhận tiền từ tay bà H, ông H đã giao cho ông H một phần tiền là khoảng hơn 300.000.000 đồng, ông H và vợ ông H ngồi tại đó đếm tiền. Sau khi ông H nhận tiền xong thì vợ chồng đi về. Phần tiền còn lại ông H cầm và ra về. Tại hôm ký hợp đồng đặt cọc, ông có chụp ảnh quá trình ông H viết, xem và ký hợp đồng đặt cọc. Ngoài việc ký hợp đồng đặt cọc thì không ký bất cứ giấy tờ nào khác.

Khoảng hai hôm sau, bà G đi một mình đến nhà bà H, ông cũng có mặt ở đó. Bà G được bà H cho xem hợp đồng đặt cọc. Bà G không đồng ý ký Hợp đồng vì cho rằng giá chuyển nhượng thoả thuận như vậy là thấp, nên đề nghị để thêm mấy ngày để bàn bạc lại ông H và sẽ chốt thời gian ký kết hợp đồng chuyển nhượng.

Sau nhiều lần thúc giục thực hiện việc ký hợp đồng chuyển nhượng, nên ông H, bà G đã hẹn với ông và bà H lên Văn phòng luật sư để ký hợp đồng chuyển nhượng đất và giao nốt số tiền còn lại. Ngày 06/01/2021 tại Văn phòng luật sư số 299 Cầu Giấy, H, có mặt ông H, bà G, cháu V, bà H, ông và Luật sư của bà G (ông không biết tên Luật sư này), có mặt để ký hợp đồng chuyển nhượng. Bà H đã mang nốt số tiền còn lại để giao cho ông H, bà G. Ban đầu hai bên thống nhất ký hợp đồng nhưng do ông H, bà G cãi nhau về tài sản của vợ chồng nên không ký được hợp đồng. Ông đã ghi âm lại toàn bộ buổi nói chuyện ngày hôm đó.

Sau buổi hôm đó, ông H, bà G nhiều lần khất việc ký hợp đồng chuyển nhượng nhưng do không dàn xếp được với nhau nên đến nay vẫn không ký hợp đồng chuyển nhượng.

Do vậy, ông khởi kiện yêu cầu huỷ hợp đồng đặt cọc trên; yêu cầu ông H trả cho bà H số tiền 750.000.000 đồng đặt cọc và phạt cọc 750.000.000 đồng vì lỗi không ký kết được hợp đồng chuyển nhượng là do ông H. Quá trình giải quyết vụ án ông H rút một phần yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu huỷ hợp đồng đặt cọc. Ông xác định ông chỉ là người đứng tên hộ bà H trên hợp đồng đặt cọc, còn tiền đặt cọc 750.000.000 đồng bà H giao cho ông H ngay sau khi ký hợp đồng đặt cọc là tiền của bà H.

Do thời điểm đó ông H chưa được nhận đất dịch vụ nên tại Hợp đồng đặt cọc hai bên thống nhất ghi đất chuyển nhượng là diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi. Hai bên vẫn trao đổi và thoả thuận với nhau về việc chuyển nhượng phần đất sẽ được bồi thường khi bị thu hồi đất nông nghiệp hay còn gọi là đất dịch vụ. Phần đất nông nghiệp bị thu hồi trên đã được bồi thường tại thửa 330 khu đất dịch vụ 2,3ha thị trấn Trạm Trôi, huyện Đ, H.

Bị đơn - ông Nguyễn Văn H trình bày:

Ông và ông T có mối quan hệ thân quen từ lâu. Bà Phạm Thị H là chị dâu của vợ ông (Bùi Thị G). Thời gian khoảng tháng 5, tháng 6 năm 2019, ông có vay tiền của ông T tổng số tiền 50.000.000 đồng, hai bên thỏa thuận cắt lãi 8.000.000đồng ngay từ khi giao tiền, mỗi ngày trả 1.000.000 đồng nợ gốc, trả trong thời hạn 50 ngày, khi vay có viết giấy nhưng ông T giữ, ông không được giữ, nhận tiền qua chuyển khoản, số tiền này đến hạn ông không trả được nên phải chịu lãi, tổng cộng cả gốc và lãi tính đến tháng 10/2020 là khoảng hơn 300.000.000đồng. Thời điểm đó ông đang nợ ông Hoàng Ngọc H, sinh năm 1977, trú tại thôn Cao Xá, xã Đức Thượng, huyện Đ, H số tiền 350.000.000 đồng cả gốc và lãi đến hạn nhưng chưa có tiền trả (khi vay ông có đưa cho ông H 02 bản chính quyết định thu hồi đất nông nghiệp số 5326 và 5327/9.7.2008 của UBND huyện Đ để làm tin). Do cần tiền để trả nợ cho ông H nên ông vay thêm của ông T số tiền 50.000.000đồng. Ông T trao đổi với ông là bà H sẽ cho ông vay 50.000.000đồng và cộng với cả khoản vay trước đó nên hai bên chốt với nhau số tiền ông nợ ông T là khoảng 350.000.000đồng. Thực chất số tiền hai bên xác nhận nợ với nhau là tiền của bà H, nên thống nhất dồn khoản nợ này thành khoản nợ ông vay bà H.

Để bảo đảm cho khoản vay, ông T và bà H yêu cầu ông ký hợp đồng đặt cọc. Khoảng ngày 31/10/2020, ông cùng con trai là Nguyễn Văn V đến nhà bà H tại số 265 Ngọc Lâm, B, H để ký giấy vay nợ.

Có mặt tại buổi hôm đó có ông, con trai ông là Nguyễn Văn V, ông Nguyễn Minh T, bà Phạm Thị H, ông Hoàng Ngọc H và vợ ông H (ông không biết tên).

Bà H đưa cho ông 02 bản Hợp đồng đặt cọc đã được soạn thảo sẵn nội dung, còn một số nội dung thì để trống. Ông đã ký ghi họ tên vào trang 1, 2, 3 và trang cuối.

Sau khi được Toà án xem 08 ảnh do ông T nộp tại Toà, ông có nhớ lại sự việc hôm đó, ông xác định là người trong ảnh và đã tự tay viết số tiền đặt cọc vào phần tài sản đặt cọc là 750.000.000 đồng bằng chữ và bằng số, còn các phần khác thì bà H tự điền và điền sau đó.

Thời điểm đó chỉ có một mình ông ký vào bản hợp đồng này, các dòng trống thì vẫn chưa được điền nội dung. Ông cũng hỏi ông T tại sao để trống nội dung thì ông T giải thích là bản hợp đồng này chỉ có giá trị bảo đảm cho khoản vay, còn không có giá trị chuyển nhượng đất đai nên ông yên tâm và ký. Ông ký hai bản Hợp đồng đặt cọc đã soạn sẵn do bà H đưa. Sau khi ký xong, ông để lại bản hợp đồng tại nhà bà H, ông không được giữ bản nào. Bản Hợp đồng đặt cọc ngày 31/10/2020 mà Tòa án đưa cho ông xem, ông xác định đúng chữ ký và chữ viết của ông, tuy nhiên các nội dung được điền vào hợp đồng là được điền sau khi ông ký, ông không nắm được những nội dung đó, những nội dung đó không nằm trong thỏa thuận giữa ông và T.

Ngoài ra, tại buổi hôm đó, ông còn ký một giấy vay tiền, do ông T soạn sẵn, phần nội dung người cho vay vẫn để trống, nội dung là ông vay số tiền khoảng hơn 300 triệu đồng. Giấy này ông T cũng giữ.

Sau khi ký hai giấy trên thì bà H đưa cho ông 350.000.000 đồng và ông giao cho bà H 02 quyết định thu hồi đất của ông mà ông H đã giao cho ông tại đây. Ngay sau khi nhận được 350.000.000đồng của bà H giao thì ông cũng đưa luôn toàn bộ số tiền đó cho ông H để trả nợ.

Sau đó khoảng hai lần ông có trả lãi cho bà H vào cuối năm 2020 và khoảng cuối năm 2021, mỗi lần trả 50.000.000đồng. Khi trả tiền hai bên không viết giấy tờ gì. Việc vay nợ giữa ông và ôngT, bà G không biết, không tham gia.

Tại khoản 1 Điều 3 Hợp đồng đặt cọc ngày 31/10/2020 có ghi: “việc đặt cọc này bên A cam kết mua đất và nhà của bên B tại thửa đất số 13, tờ bản đồ số 7 xứ Đồng Dạ thị trấn Trạm Trôi, huyện Hoaì Đức, H, theo bản đồ trích đo tỷ lệ 1/500 Sở TN và MT tỉnh Hà Tây xác nhận ngày 01/8/2007. Có diện tích 360m2 đất.”. Phần đất này đã bị thu hồi nên không có giá trị chuyển nhượng. Việc bên phía ông T soạn thảo nội dung như vậy là không đúng, không phù hợp với thực tế. Tại thời điểm ký hợp đồng đặt cọc, phần đất thu hồi đã được đền bù nhưng chưa có vị trí cụ thể.

Ngày 06/01/2021 ông T hẹn ông đến Văn phòng luật sư tại địa chỉ 299 Cầu Giấy (ông không nhớ Văn phòng luật sư đó tên gì) để thống nhất về việc đất đai của vợ chồng khi ly hôn, nhưng khi đến đó bà H và chị G cãi nhau, nội dung gì thì ông không nhớ, chị G cho rằng phần đất dịch vụ khi bị thu hồi theo 02 quyết định thu hồi đất trên là tài sản của chị G.

Ông đã được Toà án cho xem bản dịch nội dung ghi âm ngày 06/01/2021 tại Văn phòng Luật sư số 299 Cầu Giấy, nội dung trên là toàn bộ sự việc xảy ra tại buổi hôm đó, ngoài nội dung đó ra giữa các bên không còn nội dung nào khác. Buổi làm việc hôm đó có mặt Luật sư của Văn phòng luật sư (ông không biết tên), ông, bà H, chị G và ông T. Khi không nói chuyện được với nhau thì mọi người ra về. Ông đã được Toà án cho nghe bản ghi âm buổi làm việc ngày hôm đó do bà H ghi lại bằng điện thoại của bà H, ông không yêu cầu giám định bản ghi âm này. Trong bản ghi âm ông xác nhận đúng là giọng nói của bà H, chị G và ông. Tuy nhiên, thời điểm đó ông vẫn đang nhờ bà H giải quyết việc phân chia tài sản nên ông nghĩ lên Văn phòng Luật sư để giải quyết việc này, còn tại đó lại nói về việc chuyển nhượng đất dịch vụ nên giữa các bên không nói chuyện được với nhau, mà chỉ cãi nhau và sau đó đi về.

Phần đất nông nghiệp nhận chuyển nhượng của ông Lê Đức S và ông Bùi Hữu Ch là do ông nhận chuyển nhượng trong thời kỳ hôn nhân với bà G.

Thời điểm ký hợp đồng đặt cọc thì ông đã được UBND huyện Đ thông báo về việc giao đất dịch vụ, đã có vị trí thửa đất. Phần đất dịch vụ này là đất bồi thường của 02 diện tích đất nông nghiệp theo hai quyết định thu hồi đất số 5326 và 5327/9.7.2008 của UBND huyện Đ, ngoài ra còn có một phần đất nông nghiệp là tiêu chuẩn riêng của chị G nên tổng diện tích đất dịch vụ được bồi thường là 82,7m2, (phần diện tích đất dịch vụ tiêu chuẩn riêng của chị G là 24m2). Vị trí thửa đất dịch vụ tại thửa số 330 khu đất dịch vụ 2,3ha thị trấn Trạm Trôi, Đ, H. Phần diện tích đất này đã được giải quyết tại Bản án số 542/2022/HNGĐ-ST ngày 29/11/2022 của Toà án nhân dân huyện Đ, tại quyết định đã giao cho ông 30m2 đất dịch vụ, tuy nhiên đến nay ông vẫn chưa thi hành bản án này vì 30m2 đất phi nông nghiệp không đủ điều kiện để tách thửa.

Ông xác định hợp đồng đặt cọc là giả tạo, bản chất là hợp đồng vay tiền, ngày hôm đó ông không được nhận số tiền 750.000.000đồng đặt cọc. Do vậy, ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông T. Ông xác định giữa ông và bà H không phải là quan hệ giao dịch đặt cọc mà bản chất là việc vay tiền, nhưng ông không có tài liệu về việc vay tiền, ông có ký giấy vay tiền nhưng bà H đã giữ giấy này, ông không được giữ, để làm tin cho việc vay tiền thì ông đã giao cho bà H 02 quyết định về việc thu hồi đất số 5326 và 5327/9.7.2008 của UBND huyện Đ. Ông vay bà H số tiền 350.000.000 đồng.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan 1. Bà Phạm Thị H trình bày Gia đình ông H là chủ sử dụng 02 diện tích đất nông nghiệp tại thửa số 13 tờ bản đồ số 7 xứ đồng Đồng Dạ, thị trấn Trạm Trôi, huyện Đ, H, diện tích 360m2 và thửa đất số 9 tờ bản đồ số 01 xứ đồng Xốm Thượng, thị trấn Trạm Trôi, diện tích 180m2. Cả hai diện tích đất trên đều nằm trong diện bị thu hồi theo các Quyết định số 5326, 5327 ngày 09/7/2008 của UBND huyện Đ. Sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp thì các chủ sử dụng sẽ được bồi thường diện tích đất dịch vụ khác, tương đương với 10% diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi. Ban đầu, ông Nguyễn Văn H đã thoả thuận bán 02 diện tích đất dịch vụ được bồi thường (khoảng 54m2) sau khi nhà nước thu hồi 02 diện tích đất nông nghiệp nói trên cho ông Hoàng Ngọc H, sinh năm 1977, trú tại thôn Cao Xá, xã Đức Thượng, huyện Đ, H, ông H đã giao cho ông H 02 quyết định về việc thu hồi đất nông nghiệp của UBND huyện Đ. Nhưng sau đó, do ông H không lo đủ tiền để thực hiện việc chuyển nhượng nên ông H đã liên hệ với bà để trao đổi về việc chuyển nhượng toàn bộ phần đất dịch vụ trên. Tại Điều 2 của hai quyết định bồi thường cũng thể hiện về việc bồi thường đối với người bị thu hồi đất, chính vì thế mà hai bên thoả thuận diện tích sau khi bị thu hồi là 54m2 và giá chuyển nhượng là 38.000.000đồng/m2, thoả thuận đặt cọc là 750.000.000 đồng. Tuy nhiên do sơ suất nên tại hợp đồng đặt cọc chỉ thể hiện diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi là 360m2 theo Quyết định 5327. Do có quan hệ họ hàng với ông H và có con nuôi là Nguyễn Minh T có hộ khẩu tại thị trấn Trạm Trôi, để thuận tiện cho việc làm giấy tờ nên bà có nhờ T đứng ra ký kết hợp đồng đặt cọc với ông H. Ngày 31/10/2020 tại số 265 Ngọc Lâm là nhà riêng của bà H, các bên đã ký hợp đồng đặt cọc, bà là người trực tiếp giao cho H số tiền 750.000.000 đồng, bà ký tên là người làm chứng. Toàn bộ quá trình ký kết hợp đồng đặt cọc bà đã chụp ảnh lại. Khi bà giao tiền cho ông H thì ông H cũng giao cho bà 02 quyết định thu hồi đất trên. Sau khi ký kết hợp đồng đặt cọc, bà đã nhiều lần yêu cầu H thực hiện việc chuyển nhượng như đã cam kết nhưng do hai vợ chồng ông H mâu thuẫn không thống nhất được nên ông H khất lần để kéo dài thời gian. Cụ thể, ngày 06/01/2021 chị G có mời bà, ông T, ông H đến Văn phòng Luật sư 299 Cầu Giấy để thực hiện việc chuyển nhượng. Tại đó hai bên đã trao đổi rất rõ về việc đặt cọc và chuyển nhượng nhưng chị G lật lọng nên buổi làm việc không đạt hiệu quả. Sau đó bà nhiều lần yêu cầu nhưng vợ chồng anh H né tránh. Nay ông T khởi kiện bà nhất trí với yêu cầu khởi kiện của ông T.

2. Bà Bùi Thị G trình bày:

Bà và ông Nguyễn Văn H trước đây là vợ chồng và đã ly hôn tháng 11/2022. Ông Nguyễn Minh T là người cùng làng với bà, quan hệ thân thiết với cả bà và ông H. Bà Phạm Thị H là chị dâu của bà.

Việc vay mượn giữa ông H và ông T như thế nào thì bà không rõ. Việc ông H mang hai quyết định thu hồi đất của gia đình là Quyết định số 5326/9.7.2008 và số 5327/9.7.2008 của UBND huyện Đ về việc thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình đi cầm cố bà không biết, ông H không nói gì với bà. Bà không quen biết vợ chồng ông Hoàng Ngọc H, sinh năm 1977, trú tại thôn Cao Xá, xã Đức Thượng, huyện Đ, H.

Việc ông H, ông T và bà H thoả thuận về việc đặt cọc như thế nào thì bà không rõ, giữa ông H, ông T, bà H và ông H, ông T và bà H không có trao đổi bất cứ vấn đề gì liên quan đến việc đặt cọc và chuyển nhượng nhà đất nào cả, bà không nhận bất cứ tiền đặt cọc nào từ bà H và ông H cũng không trao đổi, cũng không đưa cho bà bất cứ đồng nào từ việc đặt cọc. Việc ông H ký hợp đồng đặt cọc và có nhận tiền của bà H không thì bà không biết, không liên quan và cũng không được hưởng lợi gì từ số tiền này, việc ông H đặt cọc hay có thoả thuận chuyển nhượng đất thu hồi và đất dịch vụ của gia đình như thế nào là tự ông H làm, không trao đổi, không hỏi ý kiến và cũng không được sự đồng ý của bà.

Toàn bộ các giấy tờ về nhà đất của gia đình bà là do ông H giữ, bà không giữ nên bà cũng không biết về việc ông H đã mang hai quyết định thu hồi đất nông nghiệp của gia đình đưa cho bà H để ký hợp đồng đặt cọc và giữa các bên có sự thoả thuận về việc chuyển nhượng như thế nào thì bà không rõ.

Thời điểm bà và ông H đang làm thủ tục ly hôn tại Toà án thì ông T có nói với bà là ông H đã đặt cọc hai quyết định đất dịch vụ. Bà cũng không rõ là đất nào vì ông H làm nghề buôn bán bất động sản nên liên quan nhiều đến đất đai. Bà cũng nói với ông T là nếu là đất dịch vụ 54m2 thì không được vì đất đó ông H đã có thoả thuận là giao lại cho bà theo Giấy cam kết ông H viết ngày 24/4/2011 có chữ ký của ông H và ông T ký làm chứng. Giấy này chỉ có 01 bản do bà giữ bản chính. Do vậy, nên bà đã chủ động hẹn ông H, cháu V (con trai bà) và bà H, ông T đến Văn phòng Luật sư số 229 Cầu Giấy, gặp luật sư Quang (bà không nhớ họ) là Luật sư bà thuê tư vấn khi ly hôn, đến để giải quyết về nội dung chia tài sản vợ chồng khi ly hôn và việc đặt cọc giữa ông H và ông T, bà H như lời nói của ông T. Tuy nhiên, tại buổi làm việc đó, bà H mắng chửi bà liên tục nên các bên không trao đổi được nội dung gì. Luật sư Quang cũng không lập được biên bản gì. Tại buổi đó ông H cũng khẳng định việc đặt cọc mua bán đất đai giữa ông H, ông T, bà H không liên quan gì đến bà. Sau đó bà cũng nhiều lần liên hệ với bà H và ông T thông báo về việc vợ chồng bà đang giải quyết ly hôn tại Toà án, nếu có liên quan gì thì liên hệ với Toà để giải quyết. Ông T cũng khẳng định việc đặt cọc giữa ông H và ông T không có tên bà nên bà không liên quan gì. Trong việc giải quyết ly hôn, giữa bà và ông H cũng không thoả thuận được với nhau nên Toà án cũng phải xét xử.

Nay ông T khởi kiện về việc đặt cọc với ông H thì bà không có ý kiến gì, đó là việc riêng giữa hai người, bà không liên quan, đề nghị Toà án giải quyết theo pháp luật.

Đối với ông Hoàng Ngọc H đã Toà án triệu tập ông lên làm việc nhưng ông H không lên và từ chối cung cấp lời khai, do vậy, Toà án không thực hiện được việc lấy lời khai của ông H.

Bản án dân sự sơ thẩm số 73/2023/DS-ST ngày 30/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ đã xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Minh T đối với ông Nguyễn Văn H về việc tranh chấp hợp đồng đặt cọc.

2. Buộc ông Nguyễn Văn H thanh toán trả bà Phạm Thị H số tiền đặt cọc là 750.000.000 đồng và số tiền phạt cọc là 750.000.000 đồng theo Hợp đồng đặt cọc ngày 31/10/2020 đã ký giữa ông Nguyễn Minh T và ông Nguyễn Văn H.

3. Chấp nhận việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Minh T.

Đình chỉ giải quyết yêu cầu của ông Nguyễn Minh T về việc huỷ Hợp đồng đặt cọc ngày 31/10/2020 ký giữa ông Nguyễn Minh T và ông Nguyễn Văn H.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự. Không đồng ý với bản án sơ thẩm, bị đơn - ông Nguyễn Văn H đã có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với lý do, bản án sơ thẩm chưa xem xét, đánh giá đầy đủ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của ông H. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn - ông Nguyễn Minh T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và cho rằng yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn H là không có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị đơn - ông Nguyễn Văn H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo với lý do, việc ký kết hợp đồng đặt cọc là giả tạo để che dấu quan hệ vay nợ tiền giữa ông H và ông T nhưng ông không có căn cứ gì để giao nộp cho Tòa án về việc vay nợ, ông đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xem xét các tình tiết khách quan đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho ông.

Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn phát biểu:

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ và trình bày của các bên có cơ sở xác định Hợp đồng đặt cọc bị vô hiệu vì các lý do sau:

- Đối tượng các bên giao dịch chuyển nhượng ghi trong Hợp đồng đặt cọc lập ngày 31/10.2020 (Hợp đồng đặt cọc) là thửa đất số 13 tờ bản đồ số 7 Xứ Đồng Da, thị trấn Trạm Trôi, huyện Đ, H, có diện tích 360m2 đã bị Nhà nước thu hồi, nên các bên thỏa thuận chuyển nhượng là không đúng quy định của pháp luật.

- Chủ thể ký Hợp đồng đặt cọc là ông Nguyễn Minh T với ông Nguyễn Văn H nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại tuyên ông Nguyễn Văn H phải thanh toán trả bà Phạm Thị H số tiền đặt cọc và số tiền phạt cọc là không phù hợp, giữa ông T với bà H không có việc ủy quyền nhận tiền.

- Tại Điều 4 Hợp đồng đặt cọc có nội dung thỏa thuận “Bên A (bên đặt cọc) nhận lại số tiền đặt cọc và một khoản tiền bằng số tiền đặt cọc trong trường hợp bên B từ chối việc giao kết hoặc thực hiện nghĩa vụ dân sự đã thỏa thuận tại Điều 3 (mục đích đặt cọc không đạt được)…”, tuy nhiên anh H không từ chối giao kết và cũng không từ chối thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong Hợp đồng nên anh H không phải trả tiền đặt cọc và tiền phạt cọc theo quy định tại điều này.

- Tại Điều 6 của Hợp đồng đặt cọc cũng thỏa thuận: “… nếu mảnh đất trên thuộc diện quy hoạch không giao dịch được thì Bên B phải hoàn trả lại 100% số tiền mà bên A đã giao cho bên B.…”. Thực tế thì thửa đất các bên thỏa thuận chuyển nhượng thuộc diện quy hoạch và đã bị thu hồi nên có thể áp dụng thỏa thuận tại Điều này. Ông H chỉ phải trả cho ông T số tiền đã nhận đặt cọc mà không phải chịu phạt cọc.

- Lời khai của anh T trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa có nhiều mâu thuẫn nhưng Tòa án chưa làm rõ về sự mâu thuẫn này.

Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết vụ án đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho bị đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H phát biểu:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự đã thực hiện quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Sau khi phân tích tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và tranh luận tại phiên tòa xác định, theo Quyết định số 5326 ngày 09/7/2008 của UBND huyện Đ về việc thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình ông Bùi Hữu Ch thể hiện, hộ ông H đang sử dụng 180m2 đất nông nghiệp bị thu hồi. Thời điểm hiện nay chưa có Quyết định giao đất vì UBND thị trấn Trạm Trôi báo gọi nhưng ông H, bà G chưa lên nhận. Phần diện tích đất này không có tranh chấp gì về quyền sử dụng đất, do vậy xác định nguồn gốc đất của ông H, bà G đã được Nhà nước thu hồi và thực hiện việc đền bù bằng thửa đất mới.

Theo trình bày của nguyên đơn thì ngày 20/10/2020 tại nhà bà H có ông H, bà G, anh V và bà H bàn bạc thống nhất, ông H và bà G chuyển nhượng cho bà H phần diện tích đất dịch vụ được bồi thường là 54m2 tại thửa số 330, khu đất dịch vụ sân vận động Đ, thị trấn Trạm Trôi, huyện Đ, H. Giá thỏa thuận chuyển nhượng là 38.000.000đồng/m2. Thỏa thuận đặt cọc 750.000.000 đồng và ký Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng. Ngày 31/10/2020 các bên đã ký kết Hợp đồng đặt cọc.

Ông H thừa nhận việc ký kết Hợp đồng đặt cọc nhưng cho rằng việc ký kết là giả tạo, bản chất là quan hệ vay nợ giữa ông và bà H, tuy nhiên ông H không đưa ra được căn cứ chứng minh có việc vay nợ như ông đã trình bày. Quá trình giải quyết vụ án ông H thừa nhận bản ghi âm ngày 06/1/2021, tại bản ghi âm này thể hiện các bên trao đổi về việc đặt cọc mua đất giữa ông H và bà H. Như vậy khẳng định có sự việc ông H nhận tiền đặt cọc của bà H.

Xét Hợp đồng đặt cọc giữa ông T và ông H có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật nên có hiệu lực pháp luật đối với các bên tham gia ký kết. Do ông H, ông T đều xác định khoản tiền 750.000.000đồng giao cho ông H đặt cọc là của bà H nên có cơ sở xác định khoản tiền đặt cọc là tiền của bà H. Trong Hợp đồng các bên thỏa thuận thời hạn thực hiện Hợp đồng đặt cọc là 03 tháng kể từ ngày 31/10/2020, hết thời gian này ông H vẫn chưa thực hiện thỏa thuận trong Hợp đồng nên ông T khởi kiện yêu cầu ông H phải trả tiền đặt cọc và phạt cọc cho bà H được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận là có căn cứ.

Do vậy kháng cáo của ông H là không có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông H. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 73/2023/DS-ST ngày 30/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H phát biểu quan điểm, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng: Bị đơn - ông Nguyễn Văn H có đơn kháng cáo trong thời hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên xác định kháng cáo là hợp lệ.

Đối với sự vắng mặt của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có đơn kháng cáo, trong đó bà Phạm Thị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác đã được Toà án tống đạt và triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy sự vắng mặt không làm ảnh hưởng đến việc xét xử nên căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

Đối với Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn có đơn đề nghị hoãn phiên tòa để có thời gian nghiên cứu hồ sơ và thu thập thêm tài liệu chứng cứ. Xét thấy đề nghị của Luật sư không thuộc trường hợp được hoãn phiên tòa theo quy định tại Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, do vậy không có cơ sở chấp nhận đề nghị hoãn phiên tòa của Luật sư.

2. Về nội dung: Xét kháng cáo của bị đơn 2.1. Về tính hợp pháp của giao dịch đặt cọc:

Ngày 31/10/2020, ông Nguyễn Minh T và ông Nguyễn Văn H có giao kết Hợp đồng đặt cọc, nội dung: Bên A (ông T) đặt cọc cho bên B (ông H) số tiền 750.000.000 đồng, thời hạn 03 tháng, kể từ ngày 31/10/2020, mục đích để cam kết mua đất và nhà tại thửa đất số 13 tờ bản đồ số 7 xứ Đồng Dạ, thị trấn Trạm Trôi, diện tích 360m2, giá bán 38.000.000 đồng/m2, hợp đồng có hiệu lực kể từ ngày 31/10/2020. Phần cuối hợp đồng có chữ ký và họ tên ông T, ông H và người làm chứng là bà Phạm Thị H.

Ông H cho rằng hợp đồng đặt cọc trên là hợp đồng giả tạo, bản chất là hợp đồng vay tiền, có nhiều lần ông vay tiền của bà H, số tiền được cộng dồn lại là 760.000.000 đồng. Tuy nhiên bà H cũng như ông T đều không thừa nhận có việc vay, nợ tiền đối với ông H trong vụ án này. Tại phiên tòa ông H cũng xác định không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh về việc ông vay, nợ tiền với bà H và ông T nên xác định trình bày của ông H là không có cơ sở.

Tại Hợp đồng đặt cọc thể hiện số tiền đặt cọc là 750.000.000 đồng. Quá trình giải quyết vụ án ông H trình bày sau khi ký hợp đồng đặt cọc, bà H chỉ đưa cho ông số tiền 50.000.000 đồng, sau đó ông nhớ lại là đưa 350.000.000 đồng, tại phiên toà sơ thẩm ông H khai nhận khoảng 390.000.000 đồng, không phải số tiền 750.000.000 đồng. Tuy nhiên ông H xác nhận ông là người trực tiếp viết số tiền 750.000.000 đồng bằng số và bằng chữ vào nội dung số tiền đặt cọc trong Hợp đồng đặt cọc.

Tại điểm a khoản 1 Điều 4 Hợp đồng đặt cọc thể hiện: bên A có nghĩa vụ giao số tiền đặt cọc theo đúng thoả thuận ngay sau khi ký hợp đồng. Tại khoản 3 Điều 7 hợp đồng đặt cọc thể hiện: Bên B đã nhận đủ số tiền đặt cọc nêu trong điều 1 từ bên A. Ông H xác nhận đã nhận tiền trực tiếp từ bà H nhưng khai không thống nhất về số tiền đã nhận của bà H. Tuy nhiên ông H xác nhận số tiền 750.000.000đồng được ghi bằng số và bằng chữ do chính tay ông viết vào Hợp đồng đặt cọc, do vậy, trình bày của ông H về việc chỉ nhận số tiền 350.000.000 đồng của bà H là không có căn cứ, không phù hợp với chính việc ông tự tay viết số tiền 750.000.000 đồng vào hợp đồng đặt cọc. Đây là chứng cứ chứng minh ông H đã nhận số tiền 750.000.000 đồng đặt cọc của bà H.

Đối với việc ông H cho rằng, tại Hợp đồng đặt cọc ghi đối tượng chuyển nhượng là đất và nhà tại thửa đất số 13 tờ bản đồ số 7 xứ Đồng Dạ, thị trấn Trạm Trôi, nhưng thửa đất này đã bị thu hồi theo Quyết định số 5237 ngày 9/7/2008 của UBND huyện Đ nên thoả thuận này là không phù hợp. Quá trình giải quyết vụ án ông T, bà H cung cấp bản ghi âm ngày 06/01/2021 do ông T ghi lại nội dung trao đổi giữa ông H, bà H, bà G về việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng đất dịch vụ và 08 bức ảnh chụp ông H đang cầm bút viết và ký vào Hợp đồng đặt cọc. Tại Biên bản đối chất (BL 81) và Biên bản phiên tòa (BL 149), ông H thừa nhận nội dung trong bản ghi âm này là đúng và xác định giọng nói trong bản ghi âm đúng là giọng nói của bà H, bà G và của ông H. Tại buổi làm việc ngày 06/01/2021, các bên trao đổi về việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng thửa đất dịch vụ nhưng kết quả thoả thuận không thành. Như vậy lời khai của ông T, bà H phù hợp với các chứng cứ được các bên thừa nhận.

Căn cứ vào Biên bản làm việc ngày 08/8/2023, UBND thị trấn Trạm Trôi cung cấp cho Tòa án thể hiện, UBND huyện Đ đã có thông báo cho hộ ông H đến nhận đất theo theo Thông báo số 71 ngày 19.3.2019 về việc giao đất dịch vụ theo NĐ 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của chính phủ. UBND thị trấn Trạm Trôi đã tổ chức bốc thăm, vị trí đất gia đình ông H bốc thăm được là ô số 330 khu đất dịch vụ 2,3h thị trấn Trạm Trôi huyện Đ, H. UBND thị trấn Trạm Trôi đã gọi ông H lên để giao đất nhưng ông H, bà G không lên nên chưa có quyết định giao đất.

Như vậy, có cơ sở xác định đối tượng chuyển nhượng là phần diện tích đất đã được bồi thường bằng ô đất khác, các bên thực hiện giao dịch đặt cọc để chuyển nhượng thửa đất sau khi đã được cơ quan có thẩm quyền thông báo cho gia đình ông H đến nhận bàn giao đất. Tuy nhiên do ông H chưa đến nhận bàn giao nên cơ quan có thẩm quyền chưa thực hiện được việc giao đất cho ông H.

Hợp đồng đặt cọc ngày 31/10/2020 được các bên ký kết trên cơ sở tự nguyện, đúng chữ ký của các bên, mục đích để bảm đảm giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tại thời điểm ký kết hợp đồng, các bên có đủ năng lực hành vi dân sự, mục đích giao kết là để chuyển nhượng diện tích đất dịch vụ được bồi thường theo Quyết định thu hồi đất số 5326, 5327 ngày 09/7/2008 của UBND huyện Đ, thời điểm đó ông H đã được đền bù đất dịch vụ.

Tại trang cuối cùng của hợp đồng đặt cọc, ông T ký dưới mục bên B (bên nhận đặt cọc), ông H ký dưới mục bên A (bên đặt cọc). Xét thấy, việc ký kết có sự nhầm lẫn của các bên trong phần vị trí ký tên, tuy nhiên sự nhầm lẫn này không làm thay đổi bản chất của giao dịch, không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng.

2.2. Về trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả tiền đặt coc và tiền phạt cọc Trong Hợp đồng đặt cọc các bên thỏa thuận, thời hạn đặt cọc các bên thoả thuận là 03 tháng, kể từ ngày 31/10/2020 nhưng đến thời điểm khởi kiện ông H không thực hiện thỏa thuận chuyển nhượng đã ký trong Hợp đồng.

Tại điểm b khoản 1 Điều 5 Hợp đồng đặt cọc ngày 31/10/2020 các bên có thỏa thuận: “Bên B có nghĩa vụ trả lại số tiền đặc cọc và một khoản tiền bằng số tiền đặt cọc cho bên A trong trường hợp bên B từ chối việc giao kết hoặc thực hiện nghĩa vụ dân sự đã thoả thuận tại Điều 3 (mục đích đặt cọc không đạt được)”. Do ông H không thực hiện việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng như đã thoả thuận mà không có lý do chính đáng nên ông T yêu cầu ông H phải trả lại cho bà H số tiền đặt cọc đã nhận 750.000.000 đồng và phải chịu tiền phạt cọc 750.000.000 đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015 là phù hợp với quy định của pháp luật. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ.

Quá trình giải quyết vụ án ông T, bà H trình bày, bà G có tham gia thoả thuận về việc đặc cọc và chuyển nhượng phần đất dịch vụ. Ngày 06/01/2021 bà G mời bà H, ông T, ông H đến Văn phòng Luật sư 299 Cầu Giấy để thực hiện việc chuyển nhượng. Tại đó các bên đã trao đổi về việc đặt cọc và chuyển nhượng phần diện tích đất dịch vụ nhưng bà G thay đổi nên buổi làm việc không đạt kết quả để các bên thực hiện việc chuyển nhượng. Đối với bà G trình bày, bà không biết việc đặt cọc và chuyển nhượng đất giữa bà H và ông H, bà không được sử dụng đối với khoản tiền ông H nhận đặt cọc của bà H; ông H không đưa cho bà khoản tiền này. Căn cứ vào lời khai của ông H, bà H và ông T xác nhận về sự có mặt của bà G trong các buổi trao đổi và làm việc; tại bản ghi âm ngày 06/01/2021 thể hiện có sự tham gia của bà G. Như vậy khẳng định bà G biết việc các bên thỏa thuận đặt cọc và chuyển nhượng đối với phần diện tích đất được đền bù. Tuy nhiên do ông H xác nhận ông là người trực tiếp nhận tiền từ bà H, sau khi nhận tiền ông đã chuyển cho người tên là H để trả nợ. Như vậy, ông H nhận tiền đặt cọc và sử dụng tiền đặt cọc, bà G không được sử dụng đối với khoản tiền này, nay ông H và bà G đã ly hôn nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà G không có trách nhiệm cùng với ông H thực hiện nghĩa vụ trả tiền đặt cọc và phạt cọc khi ông H vi phạm thỏa thuận trong Hợp đồng đặt cọc là có cơ sở.

2.3 Về quyền nhận tiền thanh toán trả tiền đặt cọc và phạt cọc Quá trình giải quyết vụ án, ông T, bà H đều xác nhận khoản tiền đặt cọc 750.000.000 đồng là tiền của bà H đưa cho ông T để thực hiện việc đặt cọc, giữa ông T với bà H không có tranh chấp về khoản tiền này. Ông H cũng xác nhận ông nhận tiền đặt cọc của bà H. Do các bên đều thừa nhận số tiền đặt cọc là của bà H nên theo quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự được xác định là những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh. Do vậy Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc ông H phải thanh toán trả cho bà H tiền đặt cọc và tiền phạt cọc là có cơ sở.

Những phân tích nêu trên cũng là căn cứ để Hội đồng xét xử không chấp nhận đối với yêu cầu kháng cáo của ông H.

Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

3. Về án phí Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng Dân sự; Căn cứ Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội và điểm d khoản 1.3 điều 1 Mục II Phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Minh T đối với ông Nguyễn Văn H về việc tranh chấp hợp đồng đặt cọc.

2. Buộc ông Nguyễn Văn H phải trả bà Phạm Thị H số tiền đặt cọc là 750.000.000 đồng và số tiền phạt cọc là 750.000.000 đồng theo thỏa thuận trong Hợp đồng đặt cọc (v/v mua bán nhà, đất) lập ngày 31/10/2020 đã ký giữa ông Nguyễn Minh T và ông Nguyễn Văn H. Tổng cộng số tiền ông Nguyễn Văn H phải thanh toán trả bà Phạm Thị H là 1.500.000.000 đồng.

3. Chấp nhận việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Minh T. Đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên huỷ Hợp đồng đặt cọc ngày 31/10/2020 ký giữa ông Nguyễn Minh T và ông Nguyễn Văn H.

4. Về án phí:

Ông Nguyễn Văn H phải chịu 57.000.000đồng án phí dân sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm ông H đã nộp theo Biên lai số 0016723 ngày 15/9/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ. Số tiền án phí ông H còn phải nộp là 56.700.000 đồng.

Ông Nguyễn Minh T được nhận lại số tiền 28.500.000 tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai số 0016481 ngày 10/5/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ.

5. Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải tiếp tục trả khoản tiền lãi của số tiền phải thanh toán kể từ sau ngày tuyên án sơ thẩm theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án cho đến khi thanh toán xong toàn bộ số tiền trên.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai phúc thẩm, có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc số 601/2023/DS-PT

Số hiệu:601/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về