Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc số 53/2020/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 53/2020/DS-PT NGÀY 21/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC

Ngày 21 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 75/2020/TLPT-DS ngày 10 tháng 11 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2020/QĐXXPT-DS ngày 16 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 57/2020/QĐPT-DS ngày 08/12/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

1/ Ông Phạm Thanh V - sinh năm 1954;

2/ Bà Nguyễn Thị Q - sinh năm 1958;

Cùng trú tại: Thị trấn G, huyện V, tỉnh Khánh Hòa.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Trần Đình L- sinh năm 1958; địa chỉ: Phường T, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; theo Giấy ủy quyền số 6706, quyển số 03/2019/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 20/8/2019 lập tại Văn phòng công chứng H; ông Lcó mặt.

- Bị đơn:

1/ Ông Trần Thanh L - sinh năm 1961;

2/ Bà Đào Thị T - sinh năm 1963;

Cùng trú tại: Thị trấn G, huyện V, tỉnh Khánh Hòa.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Nguyễn Thị H - sinh năm 1960; địa chỉ: Phường T, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; theo Giấy ủy quyền lập ngày 25/9/2019 vào sổ công chứng 2557, quyển số 02 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 25/9/2019 lập tại Văn phòng công chứng N; có mặt.

Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Phạm Thanh V và bà Nguyễn Thị Q.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 19 tháng 7 năm 2019 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày:

Ngày 05/02/2018, nguyên đơn ông Phạm Thanh V, bà Nguyễn Thị Q ký với bị đơn ông Trần Thanh L, bà Đào Thị T hợp đồng đặt cọc (có chứng thực của Ủy ban nhân dân thị trấn G, số chứng thực số 190 quyển số 01/2018 - SCT/HĐ,GD ngày 05/2/2018), nội dung là ông V, bà Q đặt cọc 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng) cho ông L, bà T để mua nhà và đất của ông L, bà T tại thửa đất số 20, tờ bản đồ số 18 thuộc Tổ dân phố số 02, thị trấn G, huyện V, tỉnh Khánh Hòa với diện tích 146,9m2 (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 253855, vào sổ cấp GCN: CH01202 ngày 27/9/2011 đứng tên ông Trần Thanh L, bà Đào Thị T ), thời hạn đặt cọc 01 (một) tháng từ ngày ký là ngày 05/02/2018; trong thơi han đăt coc cac bên se tiến hanh ky kết hơp đồng mua ban (chuyên nhương) tai Văn phong công chưng M.

Sau đó, ngày 09/02/2018, ông V, bà Q phát hiện số chứng minh nhân dân của bà T không trùng với số chứng minh nhân dân trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên đã yêu cầu ông L, bà T chỉnh lý. Tuy nhiên sau 03 lần đến yêu cầu (sáng 09/02/2018 và sáng, chiều ngày 10/02/2018), ông L, bà T không thực hiện việc chỉnh lý cũng như không có tinh thần hợp tác. Vì vậy, ngày 20/02/2018, ông V, bà Q đến yêu cầu ông L, bà T trả lại tiền đặt cọc và không đồng ý mua đất nữa. Do ông L, bà T không đồng ý nên ngày 26/02/2018, ông V, bà Q đã làm đơn gửi Ủy ban nhân dân thị trấn G giải quyết hủy hợp đồng đặt cọc, buộc ông L, bà T trả lại tiền đặt cọc. Việc hòa giải không thành do bị đơn không có thiện chí hòa giải.

Bên B là ông L và ba T đa co lôi vi pham Điều 3 cua Hơp đồng đặt cọc tưc la không lam đu thu tuc phap ly đê hai bên ra công chưng ky kết hơp đồng chuyên nhương. Do đo, bên B phai co trach nhiêm tra lai cho bên A (ông V, ba Q) 300.000.000đ (ba trăm triêu đồng) tiền đăt coc ma bên B đa nhân và bị phạt cọc 900.000.000đ. Nguyên đơn yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng đặt cọc ngày 05/02/2018, buộc ông Trần Thanh L, bà Đào Thị T trả cho ông V, bà Q tiền đặt cọc mua đất đã nhận là 300.000.000đ và 900.000.000đ phạt cọc. Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn rút yêu cầu đối với 900.000.000đ phạt cọc.

Bị đơn trình bày:

Thống nhất như trình bày của nguyên đơn ông Phạm Thanh V, bà Nguyễn Thị Q về việc ông Phạm Thanh V, bà Nguyễn Thị Q ký với ông Trần Thanh L, bà Đào Thị T Hợp đồng đặt cọc ngày 05/02/2018 và nội dung hợp đồng.

Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì nguyên đơn đã vi phạm hợp đồng đặt cọc trước. Theo hợp đồng đặt cọc đã ký, thời gian đặt cọc quy định là 01 (một) tháng kể từ ngày ký tức là ngày 05/02/2018. Tuy nhiên, khi chưa hết thời hạn 01 (một) tháng, vào ngày 20/02/2018, ông V, bà Q đến nhà ông V, bà T yêu cầu trả lại tiền cọc và không mua đất nữa và ngày 26/02/2018 đã gửi đơn đến Ủy ban thị trấn G yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc và đòi lại tiền cọc, không tiếp tục thực hiện việc giao dịch nữa. Trong khi đo, ông L, bà T đã thực hiện việc chỉnh lý số chứng minh nhân dân trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đê nguyên đơn thưc hiên viêc sang tên và ngày 01/3/2018, khi vân con trong thơi han cua hơp đồng, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện V đã thực hiện viêc chỉnh lý xong. Trong suốt thơi gian chinh ly, ông L, ba T đa bao cho ông V, ba Q biết, tuy nhiên, rất nhiều lần ông V, ba Q đoi lai tiền coc, không mua nưa.

Ngày 05/3/2018, ngày cuối cùng của thời hạn đặt cọc, ông L, ba T đa đến phòng công chứng Nhà nước để các bên ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng ông V, bà Q không đến.

Như vậy, việc cac bên không ky được hơp đồng chuyên nhương la do lôi cua nguyên đơn nên nguyên đơn mất tiền cọc; bị đơn không đồng ý với toan bô yêu cầu của nguyên đơn.

Bản án sơ thẩm số 05/2020/DS-ST ngày 11/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Khánh Hòa đã căn cứ khoan 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 117, Điều 328 và Điều 423 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; quyết định:

1. Không chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc ngày 05/02/2018 và trả lại số tiền đặt cọc 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng) của ông Pham Thanh V, ba Nguyên Thị Q đối với ông Trần Thanh L, bà Đào Thị T .

2. Đinh chi xét xử đối với yêu cầu của ông Pham Thanh V, ba Nguyên Thị Q về viêc buôc ông Trần Thanh L, ba Đao Thi T tra 900.000.000đ (chín trăm triệu đồng) tiền phạt cọc.

3. Về án phí: Ông Pham Thanh V va ba Nguyên Thị Q phải chịu 15.000.000đ án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào 24.000.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0006964 ngày 16 tháng 9 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Khánh Hòa. Tra lai cho ông V, ba Q 9.000.000đ.

Ngày 03/9/2020, nguyên đơn ông Pham Thanh V và ba Nguyên Thị Q có đơn kháng cáo cho rằng Hợp đồng đặt cọc ngày 05/02/2018 có nhiều chỗ bị sửa chữa, bị đơn bà Đào Thị T không ký vào hợp đồng mà chồng bà là ông Trần Thanh L ký thay nên hợp đồng không có giá trị và việc các bên không ký kết được hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là do lỗi của bị đơn đã không điều chỉnh kịp thời số chứng minh nhân dân trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Bị đơn không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa phát biểu: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng các qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, không chấp kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Người kháng cáo phải chịu án phí phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại Tòa án cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đều thừa nhận nguyên đơn tranh chấp Hợp đồng đặt cọc đề ngày 05/02/2018 được ký giữa nguyên đơn Pham Thanh V, ba Nguyên Thị Q với bị đơn ông Trần Thanh L, bà Đào Thị T, Hợp đồng được Ủy ban nhân dân thị trấn G chứng thực số 190 quyển số 01/2018 - SCT/HĐ,GD ngày 05/2/2018 việc; nội dung Hợp đồng là ông V, bà Q đặt cọc 300.000.000đ cho ông L, bà T để mua nhà và đất của ông L, bà T tại thửa đất số 20, tờ bản đồ số 18 thuộc Tổ dân phố số 02, thị trấn G, huyện V, tỉnh Khánh Hòa với diện tích 146,9m2 (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 253855, vào sổ cấp GCN:

CH01202 ngày 27/9/2011 đứng tên ông Trần Thanh L, bà Đào Thị T ); thời hạn đặt cọc 01 (một) tháng kể từ ngày ký là ngày 05/02/2018; trong thơi han đăt coc, cac bên se tiến hanh ky kết hơp đồng mua ban (chuyên nhương) tai Văn phong công chưng M; Hợp đồng này không bị sửa chữa và các bên đã thống nhất thực hiện theo Hợp đồng này; Hợp đồng đặt cọc được các bên ký trước đó do có chỉnh sửa và nguyên đơn sợ bị đơn không kịp thực hiện việc giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong hạn 07 ngày kể từ ngày ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên đã được các bên hủy bỏ và ký hợp đồng đặt cọc mà hiện nguyên đơn đang tranh chấp.

[2] Hội đồng xét xử xét thấy: Hợp đồng đặt cọc mà các bên đang tranh chấp là sự tự nguyện thỏa thuận của các bên, không trái pháp luật nên có hiệu lực. Kháng cáo của nguyên đơn về hình thức của hợp đồng là không có căn cứ.

[3] Nguyên đơn cho rằng lỗi dẫn đến việc không thể giao kết hợp đồng là do bị đơn bà Đào Thị T không thực hiện việc chỉnh lý số chứng minh nhân dân của bà T trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, theo hồ sơ vụ án thì ngày 22/02/2018 ông L, bà T đã thực hiện thủ tục để chỉnh lý số chưng minh nhân dân theo yêu cầu cua nguyên đơn và Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tai huyện V đã thực hiện chỉnh lý xong trên giấy chưng nhân quyên sư dung đất vào ngày 01/3/2018, vẫn còn trong thời hạn 01 tháng theo như Hợp đồng đặt cọc.

[4] Ngoài ra, theo như nguyên đơn trình bày tại Biên bản lấy lời khai ngày 06/8/2020 (bút lục 83) và xác nhận của Ủy ban nhân dân thị trấn G tại Biên bản xác minh ngày 06/8/2018 (bút lục 84-85) thì ngay 27/02/2018, khi chưa hết hạn hợp đồng, nguyên đơn đã gửi đơn đến Uy ban thi trấn Van Gia đê yêu cầu Uy ban nhân dân giai quyết huy hơp đồng đăt coc ma hai bên đã ky vao ngay 05/02/2018 (đơn đề ngay 26/02/2018). Đến ngày 05/3/2020, ngày cuối cùng của thời hạn 01 tháng, bị đơn đã có mặt tại Phòng công chứng để ký hợp đồng chuyển nhượng nhưng nguyên đơn không có mặt; theo nguyên đơn giải thích tại Biên bản lấy lời khai ngày 06/8/2020 (bút lục 83) là do nguyên đơn đã làm đơn yêu cầu hủy Hợp đồng đặt cọc gửi Ủy ban nhân dân thị trấn G nên không ký hợp đồng chuyển nhượng nữa.

[5] Như vậy, việc các bên không ký được hợp đồng chuyển nhượng là hoàn toàn do lỗi của nguyên đơn từ chối việc giao kết hợp đồng và theo qui định tại Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015, tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận cọc. Bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn có căn cứ, kháng cáo của nguyên đơn không được chấp nhận.

[6] Các nội dung còn lại của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị được giữ nguyên.

[7] Án phí: Người kháng cáo phải chịu án phí phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoan 1 Điều 308, khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 117, Điều 328 và Điều 423 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 26, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Pham Thanh V và ba Nguyên Thị Q; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của ông Pham Thanh V, ba Nguyên Thị Q về viêc buôc ông Trần Thanh L, ba Đao Thi T tra 900.000.000đ (chin trăm triêu đồng) tiền phạt cọc.

2. Không chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc ngày 05/02/2018 và trả lại số tiền đặt cọc 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng) của ông Pham Thanh V, ba Nguyên Thị Q đối với ông Trần Thanh L, bà Đào Thị T .

3. Về án phí: Ông Pham Thanh V va ba Nguyên Thị Q phải chịu 15.000.000đ án phí dân sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm nhưng được trừ vào 24.000.000đ tạm ứng án phí sơ thẩm và 300.000đ tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp lần lượt theo các Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0006964 ngày 16 tháng 9 năm 2019 và số AA/2019/0003405 ngày 09 tháng 9 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Khánh Hòa. Như vậy, ông Pham Thanh V va ba Nguyên Thị Q đã nộp đủ án phí và được nhận lại 9.000.000đ (chin triêu đồng).

Qui định chung: Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

443
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc số 53/2020/DS-PT

Số hiệu:53/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Khánh Hoà
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:21/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về