Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc số 451/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 451/2023/DS-PT NGÀY 25/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC

Vào các ngày 18 tháng 12 và ngày 25 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 384/2023/TLPT-DS ngày 25 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp hợp đồng đặt cọc.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 82/2023/DS-ST ngày 22 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 712/2023/QĐ-PT ngày 10 tháng 11 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đoàn Thị Vĩnh M, sinh năm 1980.

Địa chỉ: số D Quốc lộ A, phường D, thành phố T, tỉnh Long An, có mặt.

2. Bị đơn: Công ty cổ phần T.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thanh N - Giám đốc.

Địa chỉ trụ sở: Thửa đất số 74, tờ bản đồ số 52, khu dân cư P, đường V, khu phố B, phường D, thành phố T, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Tấn P, sinh năm 1991.

Địa chỉ: số C đường T, Phường A, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (theo giấy ủy quyền ngày 15/12/2023).

(Các đương sự có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 14/03/2023 và quá trình tố tụng tại Tòa án nguyên đơn bà Đoàn Thị Vĩnh M trình bày:

Năm 2019 Công ty Cổ phần T (gọi tắt Công ty T) đầu tư xây dựng khu dân cư C tại phường D, thành phố T, tỉnh Long An. Quá trình chào bán lô nền dân cư thì công ty có kêu gọi và bán các lô nền trong khu dân cư Phúc Long này. Theo đó, ngày 11/5/2019, bà M có ký 02 hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất với Công ty T để mua 02 lô nền B3-34 và B3-35.

Thực hiện 02 hợp đồng này bà M đã đặt cọc tiền để mua lô nền của công ty, tổng cộng là 1.017.450.000 đồng, trong đó: Lô B đã đặt cọc là 481.950.000 đồng; Lô B3-35 đã đặt cọc là 535.500.000 đồng.

Quá trình thực hiện hợp đồng, công ty đã vi phạm các điều khoản trong hợp đồng như không giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như thỏa thuận tại điều 4 khoản 4.1 của các hợp đồng nói trên. Đồng thời, bà M cũng được biết việc đầu tư xây dựng dự án khu dân cư C đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi chủ trương đầu tư. Bà M đã liên hệ nhiều lần yêu cầu công ty phải có trách nhiệm đối với các khoản tiền mà bà M đã đầu tư vào 02 lô nền này nhưng công ty không giải quyết.

Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết:

Tuyên bố vô hiệu đối với: hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE140/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019 và hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE141/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019.

Yêu cầu Công ty cổ phần T hoàn trả tiền đặt cọc của hai hợp đồng là: 1.017.450.000 đồng, gồm: tiền đặt cọc lô nền B3 - 34: 481.950.000.000 đồng và tiền đặt cọc lô nền B3 - 35: 535.500.000 đồng.

Yêu cầu Công ty cổ phần T trả tiền lãi tính từ ngày 11/5/2021 đến 15/3/2023: 1.017.450.000 đồng x 1%/tháng x 22 tháng = 223.839.000 đồng.

Tổng cộng: 1.241.289.000 đồng.

Đối với yêu cầu phản tố của Công ty T yêu cầu tiếp tục thực hiện hai hợp đồng nói trên, bà M không đồng ý.

Người đại diện theo ủy quyền của Công ty co phần T (gọi tắt Công ty T) trình bày:

Ngày 15/10/2018 Công ty T được UBND tỉnh L chấp thuận là chủ đầu tư dự án Khu dân cư p tại đường V, phường D, thành phố T, tỉnh Long An theo quyết định chủ trương đầu tư số 3717/QĐ-UBND.

Ngày 11/5/2019 Công ty T và bà Đoàn Thị Vĩnh M có ký kết hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE141/2019/HĐNT/VA-VC (“gọi tắt là hợp đồng đặt cọc 141”) và hợp đồng số DVE140/2019/HĐNT/VA-VC (“gọi tắt là hợp đồng đặt cọc 140”). Sau khi các bên thỏa thuận, công ty T đã triển khai được một số thủ tục pháp lý quan trọng như: đã được phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500; phê duyệt đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500; phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; thẩm duyệt thiết kế về phòng cháy và chữa cháy; đã thỏa thuận đấu nối điện, nước; đấu nối thoát nước thải; thẩm định thiết kế cơ sở.

Hiện nay, Công ty T vẫn đang gấp rút, tập trung mọi nguồn lực để triển khai các thủ tục pháp lý khác để nhanh chóng hoàn thành nghĩa vụ đối với nguyên đơn. Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện hợp đồng nguyên đơn cố tình không thực hiện nghĩa vụ giao tiền đối với công ty.

Sau khi ký kết hợp đồng, các bên phải thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ nhằm đảm bảo hợp đồng được giao kết. Tuy nhiên, bà M chỉ thực hiện giao tiền một đợt và không thực hiện các đợt còn lại (2,3,4,5,6,7,8,9) đối với hai hợp đồng nêu trên. Công ty đã thiện chí thông báo cho bà M thực hiện nghĩa vụ trễ hạn, tuy nhiên bà M vẫn không thực hiện và tiếp tục vi phạm hợp đồng.

Nay bà M khởi kiện công ty với yêu cầu tuyên hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, hợp đồng được các bên giao kết hoàn toàn tự nguyện, chủ thể giao dịch hoàn toàn có đủ năng lực hành vi dân sự, không vi phạm điều cấm của Luật thỏa mãn đầy đủ các điều kiện được quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, bà M hiện đang tìm lý do để khởi kiện công ty mục đích nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ đối với công ty. Mặc dù công ty T đã thiện chí tạo điều kiện để nguyên đơn được tiếp tục thực hiện hợp đồng nhưng nguyên đơn vẫn không thiện chí, cố tình trốn tránh nghĩa vụ đối với công ty.

Nguyên đơn đã sai phạm nhiều lần nghiêm trọng gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi công ty T. Vì vậy, công ty T đề nghị Quý Tòa các yêu cầu sau:

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn (khoản 3 Điều 72 BLTTDS 2015).

Yêu cầu bà M tiếp tục thực hiện hợp đồng số DVE141/2019/HĐNT/VA-VC và thanh toán các đợt còn lại (2,3,4,5,6,7,8,9).

Yêu cầu bà M tiếp tục thực hiện hợp đồng số DVE140/2019/HĐNT/VA-VC và thanh toán các đợt còn lại (2,3,4,5,6,7,8,9).

Tại phiên tòa sơ thẩm, Nguyên đơn bà M xác định bà M cũng có lỗi đối với hai hợp đồng là chưa đóng tiền đầy đủ theo bảng tiến độ thanh toán giá trị đất, lý do là nghe nói công ty không có đất để giao nên không tiếp tục đóng tiền, bà M đã liên hệ với công ty T yêu cầu công ty phải có trách nhiệm đối với số tiền hai hợp đồng mà bà đã đóng nhưng công ty không giải quyết. Đối với tiền lãi: yêu cầu công ty T phải trả thêm tiền lãi tính từ ngày 15/3/2023 đến ngày xét xử là 50.000.000 đồng, tổng cộng tiền lãi yêu cầu là 223.839.000 đồng + 50.000.000 đồng = 273.839.000 đồng.

Đại diện Công ty T cho rằng: Công ty T thực hiện thủ tục chuyển đổi hồ sơ pháp lý dự án từ hình thức chỉ định chủ trương đầu tư sang hình thức đấu thầu quyền sử dụng đất theo yêu cầu của UBND tỉnh L và hình thức chuyển đổi này nhằm mục đích đảm bảo hoàn thành dự án khu dân cư P trong thời gian sớm nhất, qua đó đáp ứng nghĩa vụ theo hợp đồng số 140 và hợp đồng 141, yêu cầu của nguyên đơn là không có cơ sở, chứng cứ để chứng minh rằng hợp đồng mà các bên đã giao kết là vô hiệu. Vì vậy, đề nghị HĐXX không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và xem xét chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn. Yêu cầu nguyên đơn tiếp tục thực hiện hợp đồng 140, 141.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 82/2023/DS-ST ngày 22 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An đã căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, 266, 266, 267, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 328, 408 Bộ luật dân sự 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Thị Vĩnh M.

1.1. Vô hiệu hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE140/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019 và hợp đồng nguyên tắc đạt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE141/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019 giữa bà Đoàn Thị Vĩnh M và Công ty cổ phần T.

1.2. Buộc Công ty cổ phần T có trách nhiệm thanh toán cho bà Đoàn Thị Vĩnh M số tiền 1.017.450.000 đồng (Một tỷ không trăm mười bảy triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng).

2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Thị Vĩnh M yêu cầu Công ty cổ phần T có trách nhiệm trả số tiền lãi 273.839.000 đồng (Hai trăm bảy mươi ba triệu tám trăm ba mươi chín nghìn đồng).

3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty cổ phần T yêu cầu bà M tiếp tục thực hiện hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE140/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019 và hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE141/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019.

4. Về án phí:

Công ty T phải chịu án phí quy định với mức thu là 42.523.500 đồng (Bốn mươi hai triệu năm trăm hai mươi ba nghìn năm trăm đồng), được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 300.0000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0002459 ngày 14/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân An, Công ty T phải tiếp tục nộp thêm số tiền 42.223.500đ (bốn mươi hai triệu hai trăm hai mươi ba nghìn năm trăm đồng).

Bà Đoàn Thị Vĩnh M phải chịu án phí do bị bác yêu cầu với mức thu là 13.691.950đ (mười ba triệu sáu trăm chín mươi mốt nghìn chín trăm năm mươi đồng), được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp 24.618.885 đồng (Hai mươi bốn triệu sáu trăm mười tám nghìn tám trăm tám mươi lăm đồng) theo biên lai số 0002202 ngày 21/03/2023, bà M được nhận lại số tiền 10.926.935 đồng (Mười triệu chín trăm hai mươi sáu nghìn chín trăm ba mươi lăm đồng) và được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002203 ngày 21/03/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân An, tỉnh Long An.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và hướng dẫn về quyền và nghĩa vụ thi hành án của đương sự.

Ngày 29/8/2023 Công ty cổ phần T kháng cáo bản án sơ thẩm yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, buộc bị đơn tiếp tục thực hiện hợp đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm;

Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, Công ty cổ phần T không rút đơn kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, không cung cấp, nộp thêm tài liệu, chứng cứ mới và vẫn giữ nguyên ý kiến như đã trình bày ở cấp sơ thẩm.

Bà Đoàn Thị Vĩnh M là nguyên đơn trình bày: Bà xác định bà cũng có lỗi đối với hai hợp đồng là chưa đóng tiền đầy đủ theo bảng tiến độ thanh toán giá trị đất, lý do là nghe nói công ty không có đất để giao nên không tiếp tục đóng tiền, bà M đã liên hệ với công ty T yêu cầu công ty phải có trách nhiệm đối với số tiền hai hợp đồng mà bà đã đóng nhưng công ty không giải quyết, hiện nay dự án khu dân cư P đã bị Ủy ban nhân dân tỉnh L đình chỉ hoạt động nên bà đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

Đại diện theo ủy quyền của Công ty T trình bày: Sau khi ký hợp đồng đặt cọc, các bên phải thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ nhằm đảm bảo hợp đồng được giao kết. Tuy nhiên, bà M chỉ thực hiện giao tiền một đợt và không thực hiện các đợt còn lại (2,3,4,5,6,7,8,9) đối với hai hợp đồng nêu trên. Công ty đã thiện chí thông báo cho bà M thực hiện nghĩa vụ trễ hạn, tuy nhiên bà M vẫn không thực hiện và tiếp tục vi phạm hợp đồng, phía công ty thực hiện đầy đủ theo hợp đồng nên lỗi hoàn toàn của bà M, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M.

Đại diện Viện kiêm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Kháng cáo của Công ty cổ phần T đúng quy định của pháp luật nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật.

Về yêu cầu kháng cáo của Công ty cổ phần T:

Ngày 11/5/2019, bà M và Công ty T ký 02 hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE140/2019/HĐNT/VA-VC và số DVE 141/2019/HĐNT/VA-VC để mua 02 lô nền B3-34 và B3-35.

Bà M đã đặt cọc tiền để mua lô nền của Công ty tổng cộng là 1.017.450.000đ, trong đó: Lô B3-34 đặt cọc là 481.950.000đ; Lô B đặt cọc là 535.500.000đ.

Bà M cho là Công ty đã vi phạm các điều khoản trong hợp đồng như không giao GCN.QSD đất như thỏa thuận tại điều 4 khoản 4.1 của các hợp đồng nói trên.

Do đó, bà M yêu cầu Tòa án: Tuyên bố vô hiệu hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE140/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019 và hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE141/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019. Yêu cầu Công ty T hoàn trả tiền đặt cọc của hai hợp đồng là: 1.017.450.000đ, gồm: tiền đặt cọc nền B3-34: 481.950.000.000đ và tiền đặt cọc nền B3-35: 535.500.000đ. Yêu cầu Công ty T trả tiền lãi tính từ ngày 11/5/2021 đến 15/3/2023: 1.017.450.000đ x 1%/tháng x 22 tháng = 223.839.000đ, tiền lãi tính từ ngày 15/3/2023 đến ngày xét xử là 50.000.000đ, tổng cộng tiền lãi yêu cầu là 223.839.000đ + 50.000.000đ = 273.839.000đ.

Công ty T yêu cầu bà M tiếp tục thực hiện hợp đồng số DVE141/2019/HĐNT/VA-VC và thanh toán các đợt còn lại (2,3,4,5,6,7,8,9); tiếp tục thực hiện hợp đồng số DVE140/2019/HĐNT/VA-VC và thanh toán các đợt còn lại (2,3*4,5,6,7,8,9).

Xét thấy, Dự án khu dân cư P tại đường V, Phường D, thành phố T, tỉnh Long An do Công ty T làm chủ đầu tư đã được UBND tỉnh L quyết định chủ trương đầu tư tại Quyết định số 3717/QĐ-UBND ngày 15/10/2018.

Tại thời điểm ngày 11/5/2019 bà M và Công ty T ký hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì Công ty T chưa được UBND tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất.

Theo Văn bản số 5882/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 04/8/2023 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cung cấp thông tin: Ngày 24/3/2023, Ủy ban nhân dân tỉnh L có Văn bản số 2337/UBND-KTTC về việc chấm dứt hoạt động Dự án khu dân cư P với diện tích khoảng 94.295m2 tại Phường D, thành phố T, tỉnh Long An của Công ty cổ phần T. Lý do: Công ty cổ phần T có Quyết định số 83/2023/QĐ-VA ngày 08/3/2023 và Thông báo ghi ngày 08/3/2023 về việc chấm dứt hoạt động dự án Khu dân cư P với diện tích khoảng 94.295m2 tại Phường D, thành phố T, tỉnh Long An (thuộc trường hợp quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 48 Luật đầu tư năm 2020: nhà đầu tư quyết định chấm dứt hoạt động dự án).

Do đó, căn cứ Điều 408 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì 02 hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE140/2019/HĐNT/VA-VC và số DVE141/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019 vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được.

Xét về lỗi thì cả hai bên đều có lỗi, bà M không thanh toán tiền đúng theo thỏa thuận trong hợp đồng, Công ty T đã chấm dứt hoạt động dự án nên không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng.

Từ những căn cứ nêu trên, kháng cáo của Công ty cổ phần T không có cơ sở chấp nhận.

Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Không chấp nhận kháng cáo của Công ty cổ phần T. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của Công ty cổ phần T thực hiện đúng về hình thức, nội dung và thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên vụ án được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của Công ty cổ phần T, thấy rằng:

[2.1] Căn cứ hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE140/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019 và hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE141/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019 thì vào ngày 11/5/2019 giữa bà Đoàn Thị Vĩnh M với Công ty T có ký hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất để đảm bảo cho việc giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với mã lô nền B3-34 và B3-35 tại phường D, thành phố T, tỉnh Long An do Công ty T là chủ đầu tư dự án khu dân cư P tại đường V, phường D, thành phố T, tỉnh Long An.

Theo thỏa thuận tại hợp đồng và sự trình bày của các đương sự thì sau khi ký hợp đồng đặt cọc vào ngày 11/5/2019 bà M đã đặt cọc đợt 1 cho công ty T số tiền 1.017.450.000 đồng mua 2 lô nền B3-34 và B và thời hạn thanh toán các đợt còn lại theo hợp đồng là từ đợt 2 đến 9, mỗi đợt thanh toán cách nhau 60 ngày, đợt cuối cùng thanh toán số tiền còn lại ngay sau khi bàn giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng từ đợt 2 đến đợt 9, bà M chưa thanh toán tiền theo bảng tiến độ thanh toán giá trị đất.

[2.2] Dự án khu dân cư P tại đường V, phường D, thành phố T, tỉnh Long An do Công ty T làm chủ đầu tư được UBND tỉnh L quyết định chủ trương đầu tư tại Quyết định số 3717/QĐ-UBND ngày 15/10/2018.

Ngày 24/3/2023, Ủy ban nhân dân tỉnh L có văn bản số 2337/UBND-KTTC về việc chấm dứt hoạt động dự án khu dân cư P với diện tích khoảng 94.295m2 tại phường D, thành phố T, tỉnh Long An của Công ty cổ phần T. Lý do: Công ty cổ phần T có Quyết định số 83/2023/QĐ-VA ngày 08/3/2023 và Thông báo ghi ngày 08/3/2023 về việc chấm dứt hoạt động dự án khu dân cư P với diện tích khoảng 94.295m2 tại phường D, thành phố T, tỉnh Long An (thuộc trường hợp quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 48 Luật đầu tư năm 2020: nhà đầu tư quyết định chấm dứt hoạt động dự án).

Như vậy, tại thời điểm bà M và Công ty T ký hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì Công ty T chưa được UBND tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất mà Công ty T đã ký hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà M. Do đó, căn cứ Điều 408 Bộ luật dân sự thì hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE140/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019 và hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE141/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019 vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được nên yêu cầu khởi kiện của bà M là có căn cứ.

Công ty T kháng cáo yêu cầu bà Đoàn Thị Vĩnh M tiếp tục thực hiện: hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE140/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019 và hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE141/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019 là không có căn cứ chấp nhận vì hiện nay Công ty đã chấm dứt hoạt động dự án khu dân cư P.

[3] Giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu:

Xét thấy hợp đồng vô hiệu là hai bên đều có lỗi, tại thời điểm bà M và Công ty T ký hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì Công ty T chưa được UBND tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất mà Công ty T đã ký hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà M, bà M cũng có lỗi vi phạm trong việc thanh toán tiền theo hợp đồng đặt cọc nên hai bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, buộc Công ty phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bà M số tiền cọc đã nhận 1.017.450.000 đồng theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2015.

[4] Từ những phân tích trên, xét thấy yêu cầu kháng cáo của Công ty cổ phần T là không có căn cứ nên không chấp nhận.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty cổ phần T là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của Công ty cổ phần T không được chấp nhận nên phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;

Không chấp nhận kháng cáo của Công ty cổ phần T.

Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 82/2023/DS-ST ngày 22 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An.

Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, 266, 266, 267, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 117, 131, 328, 408 Bộ luật dân sự 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Thị Vĩnh M.

1.1. Vô hiệu hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE140/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019 và hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE141/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019 giữa bà Đoàn Thị Vĩnh M và Công ty cổ phần T.

1.2. Buộc Công ty cổ phần T có trách nhiệm thanh toán cho bà Đoàn Thị Vĩnh M số tiền 1.017.450.000 đồng (Một tỷ không trăm mười bảy triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng).

2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Thị Vĩnh M yêu cầu Công ty cổ phần T có trách nhiệm trả số tiền lãi 273.839.000 đồng (Hai trăm bảy mươi ba triệu tám trăm ba mươi chín nghìn đồng).

3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty cổ phần T yêu cầu bà M tiếp tục thực hiện hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE140/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019 và hợp đồng nguyên tắc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất số DVE141/2019/HĐNT/VA-VC ngày 11/5/2019.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Công ty T phải chịu án phí quy định với mức thu là 42.523.500 đồng (Bốn mươi hai triệu năm trăm hai mươi ba nghìn năm trăm đồng), được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 300.0000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0002459 ngày 14/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân An, Công ty T phải tiếp tục nộp thêm số tiền 42.223.500 đồng (Bốn mươi hai triệu hai trăm hai mươi ba nghìn năm trăm đồng).

Bà Đoàn Thị Vĩnh M phải chịu án phí do bị bác yêu cầu với mức thu là 13.691.950 đồng (Mười ba triệu sáu trăm chín mươi mốt nghìn chín trăm năm mươi đồng), được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp 24.618.885 đồng (Hai mươi bốn triệu sáu trăm mười tám nghìn tám trăm tám mươi lăm đồng) theo biên lai số 0002202 ngày 21/03/2023, bà M được nhận lại số tiền 10.926.935 đồng (Mười triệu chín trăm hai mươi sáu nghìn chín trăm ba mươi lăm đồng) và được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002203 ngày 21/03/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân An, tỉnh Long An.

5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Công ty T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm được khấu trừ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai số 0002606 ngày 29 tháng 8 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân An, tỉnh Long An.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc số 451/2023/DS-PT

Số hiệu:451/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về