TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 08/2023/DS-ST NGÀY 09/02/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC
Ngày 09 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 149/2020/TLST-DS ngày 29 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 219/2022/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 12 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2023/QĐST-DS ngày 16/01/2023, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Huỳnh Quyền C, sinh năm: 1978; địa chỉ: A đường H, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh (chết ngày 24/8/2021) Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn:
- Bà Hồ Lệ Q, sinh năm: 1978; địa chỉ: 4 L, phường G, quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin xét xử vắng mặt) - Trẻ Huỳnh Kiện H, sinh ngày 27/8/2005;
- Trẻ Huỳnh Bội M, sinh ngày 16/6/2009;
Cùng địa chỉ: 4 L, phường G, quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, cùng do bà Hồ Lệ Q là người đại diện theo pháp luật.
- Chị Huỳnh Ngân T, sinh ngày 08/6/2002; địa chỉ: 4 L, phường G, quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin xét xử vắng mặt) Bị đơn: Ông Trần Ngọc H1, sinh năm: 1975; địa chỉ: 3 đường N, phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Hồ Lệ Q, sinh năm 1978; địa chỉ: 4 L, phường G, quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin xét xử vắng mặt)
2. Bà Đặng Thị Hoài T1, sinh năm 1992; địa chỉ: 3 đường N, phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại Đơn khởi kiện đề ngày 09/11/2018, bản tự khai và các biên bản hòa giải, nguyên đơn là ông Huỳnh Quyền C trình bày:
Vào ngày 05/4/2018, ông Trần Ngọc H1 và ông Huỳnh Quyền c ký Hợp đồng đặt cọc được công chứng tại Văn phòng C1 có nội dung: Ông Trần Ngọc H1 sẽ hoàn tất thủ tục tách thửa đối với thửa đất số 63, tờ bản đồ số 13 và căn nhà tại địa chỉ số A đường L, phường C, quận A theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC736828 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp ngày 03/11/2015, trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày Hợp đồng đặt cọc được công chứng thì ông H1 sẽ chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất không có tài sản gắn liền với đất với diện tích 67,2m2 theo bản vẽ số Hợp đồng 575/9/17 do Công ty Trách nhiệm hữu hạn L đã được Chi nhánh Văn phòng Đ duyệt ngày 02/2/2018 cho ông Huỳnh Quyền C với giá 4.000.000.000 (bốn tỷ) đồng. Để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, ông C có đặt cọc cho ông H1 số tiền 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng.
Hết thời hạn 02 tháng, ông H1 không thực hiện thủ tục chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất cho ông C nên ông C khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc buộc ông Trần Ngọc H1 phải trả lại số tiền là 500.000.000 đồng và bồi thường tiền cọc là 500.000.000 đồng, tổng cộng là 1.000.000.000 (một tỷ) đồng.
Ngày 24/8/2021, ông Huỳnh Quyền C chết (Bản sao Trích lục khai tử ngày 20/9/2021 của Ủy ban nhân dân Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh).
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn gồm: bà Hồ Lệ Q, trẻ Huỳnh Kiện H, trẻ Huỳnh Bội M, chị Huỳnh Ngân T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hồ Lệ Q trình bày: Chồng bà Q là ông Huỳnh Quyền C có đặt cọc để nhận chuyển nhượng phần đất của ông Trần Ngọc H1. Số tiền đặt cọc là tài sản riêng của ông C, không liên quan đến bà Q.
* Bị đơn ông Trần Ngọc H1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị Hoài T1: Tòa án nhân dân Quận 11 đã thực hiện đầy đủ thủ tục tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng đối với bị đơn và bà T1 nhưng phía bị đơn và bà T1 đã không đến Tòa án để giải quyết. Do đó, Tòa án không thể tiến hành ghi nhận ý kiến đối với phía ông H1 và bà T1 được.
* Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật như sau:
- Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi xét xử thấy rằng Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, Thẩm phán vẫn chưa đảm bảo thời hạn tống đạt Thông báo thụ lý cho bị đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 196 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chưa đảm bảo thời hạn chuẩn bị xét xử và gửi Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát nhân Quận 11 theo quy định tại Điều 203, khoản 2 Điều 220 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; sau khi nghe đương sự có mặt tại phiên tòa trình bày, căn cứ vào nội dung tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Ông Huỳnh Quyền C khởi kiện yêu cầu ông Trần Ngọc H1 trả lại số tiền đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở và bồi thường gấp đôi số tiền cọc đã nhận nên đây là vụ án tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nội dung tranh chấp liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tọa lạc tại Quận A nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về thủ tục tố tụng:
Bà Hồ Lệ Q và chị Huỳnh Ngân T có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 15/12/2022. Phiên tòa xét xử vụ án được mở vào lúc 08 giờ 30 phút ngày 16/01/2023 và 08 giờ 00 ngày 09/02/2023, ông ông Trần Ngọc H1 và bà Đặng Thị Hoài T1 đã được thông báo về thời gian và địa điểm xét xử vụ án nêu trên nhưng đều vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông H1, bà T1 theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 1, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về yêu cầu buộc ông Trần Ngọc H1 trả lại số tiền đặt cọc 500.000.000 đồng và yêu cầu bồi thường số tiền 500.000.000 đồng:
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho bị đơn và bà T1 các văn bản tố tụng: Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, Thông báo về việc thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa. Thông báo về việc thụ lý vụ án đã ghi rõ nội dung sự việc, yêu cầu của nguyên đơn và các tài liệu chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn, nhưng phía bị đơn và bà T1 không đến Tòa án để giải quyết vụ án, không có ý kiến phản hồi về yêu cầu của nguyên đơn, không cung cấp chứng cứ chứng minh đã trả số tiền vốn và lãi nêu trên cho nguyên đơn. Như vậy bị đơn và bà T1 đã tự tước bỏ quyền chứng minh và cung cấp chứng cứ của mình nên căn cứ theo Khoản 2, Khoản 4 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành giải quyết vụ án theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
Xét Hợp đồng đặt cọc ngày 05/4/2018, Hợp đồng được lập tại Văn phòng C1, việc thỏa thuận đặt cọc là trên cơ sở tự nguyện, mục đích và nội dung không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên có đủ cơ sở xác định giữa ông C và ông H1 có sự giao kết hợp đồng dân sự, về hình thức và nội dung của hợp đồng là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử xác định giao dịch giữa ông C và ông H1 là hợp đồng đặt cọc có giá trị pháp lý, các đương sự đều có quyền và nghĩa vụ như nhau khi hai bên xác lập giao dịch dân sự nên các bên phải thực hiện đúng nội dung đã thỏa thuận và cần giải quyết hậu quả phát sinh trong hợp đồng này.
Theo Hợp đồng đặt cọc, Điều 1 quy định: “Bên A hứa sau khi bên A hoàn tất thủ tục tách thửa đối với thửa đất số 63, tờ bản đồ số 13 và căn nhà tại địa chỉ A L, Phường C, Quận A, thành phố Hồ Chí Minh căn cứ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CC736828, số vào sổ cấp GCN: CS01781 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp ngày: 03/11/2015, cập nhật biến động ngày 05/4/2017. Thì bên A đồng ý chuyển nhượng, bên B đồng ý nhận chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất không có tài sản khác gắn liền với đất nêu trên với diện tích 67,2m2 (căn cứ theo bản vẽ số Hợp đồng 575/9/17 do Công ty TNHH L vẽ được Chi nhánh Văn phòng Đ duyệt ngày 02/02/2018) với giá chuyển nhượng là 4.000.000.000đồng. Giá này không thay đổi cho đến khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng. Bên A chịu các chi phí, phí, lệ phí liên quan đến việc hoàn tất thủ tục tách thửa đối với thửa đất so 63-6 tờ bản đồ so 13, diện tích 67,2m2. Để đảm bảo cho việc hứa chuyển nhượng và hứa nhận chuyển nhượng, bên B đặt cọc cho bên A số tiền 500.000.000 đồng” và mặt sau trang số 4 của Hợp đồng đặt cọc, ông Trần Ngọc H1 có ký tên và ghi họ tên là có nhận của ông Huỳnh Quyền Cơ s tiền 500.000.000 đồng về khoản đặt cọc đất Lạc Long Q1 vào ngày 05/4/2018. Do đó, có cơ sở nhận định ông H1 đã nhận tiền đặt cọc của ông Cơ số tiền 500.000.000 đồng.
Điều 2 của Hợp đồng đặt cọc quy định: “Thời hạn đặt cọc là 02 (hai) tháng kể từ ngày hợp đồng này được công chứng”. Điều 3 Hợp đồng đặt cọc quy định: “Trả lại số tiền đã đặt cọc và bồi thường gấp đôi số tiền đã nhận đặt cọc của bên B trong trường hợp bên A không thực hiện việc hoàn tất thủ tục xin tách thửa để chuyển nhượng cho bên B theo quy định hoặc từ chối việc giao kết, từ chối thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có tài sản gắn liền với đất nêu trên”.
Căn cứ Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “... nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Nay đã quá thời hạn nêu trong hợp đồng nhưng phía ông H1 vẫn không tiến hành chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo thỏa thuận cho ông C và việc dẫn đến không thực hiện được việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất là lỗi hoàn toàn do ông Trần Ngọc H1 nên yêu cầu trả lại tiền đặt cọc và bồi thường số tiền đặt cọc là có cơ sở chấp nhận.
Ông Trần Ngọc H1 và bà Đặng Thị Hoài T1 là vợ chồng hợp pháp theo Giấy chứng nhận kết hôn số 231/2017 do Ủy ban nhân dân phường A1, quận T cấp ngày 20/11/2017. Số tiền ông C đặt cọc nhận chuyển nhượng phần đất là tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân của ông H1 và bà T1. Tuy nhiên, ông C tự nguyện chỉ yêu cầu một mình ông Trần Ngọc H1 trả lại tiền đặt cọc 500.000.000 đồng và bồi thường tiền cọc là 500.000.000 đồng, tổng cộng 1.000.000.000 (một tỷ) đồng. Hội đồng xét xử xét thấy, đây là sự tự nguyện của ông C và phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận yêu cầu của ông C.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông Trần Ngọc H1 phải thanh toán cho ông Huỳnh Quyền Cơ s tiền 1.000.000.000 đồng.
[4] Về án phí:
Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền 1.000.000.000 đồng được Tòa án chấp nhận toàn bộ nên theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn không phải chịu án phí, bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự là 42.000.000 đồng.
[5] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 về trình tự tố tụng và giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận toàn bộ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 157, Điều 165, Điều 217, Điều 244, Điều 266 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 328 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu của Người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông Huỳnh Quyền C.
Buộc ông Trần Ngọc H1 có nghĩa vụ thanh toán cho Người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông Huỳnh Quyền Cơ s tiền 1.000.000.000 (Một tỷ) đồng, khi bản án có hiệu lực pháp luật.
2. Về án phí:
Ông Trần Ngọc H1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 42.000.000 (Bốn mươi hai triệu) đồng.
Hoàn trả lại cho Người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông Huỳnh Quyền Cơ S tiền tạm ứng án phí đã nộp là 21.000.000 (Hai mươi mốt triệu) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/003 743 7 ngày 26/11/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.
Bản án về tranh chấp hợp đồng đặt cọc số 08/2023/DS-ST
Số hiệu: | 08/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 09/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về