Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản số 24/2024/DS-ST

                        TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 24/2024/DS-ST NGÀY 22/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 19/2024/TLST-DS ngày 04 tháng 01 năm 2024 về tranh chấp hợp đồng dân sự về vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2024/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên toà số 21/2024/QĐST-DS ngày 07/3/2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn V, sinh năm: 1963. Địa chỉ: Số nhà E, tổ A, ấp T, xã M, huyện H, tỉnh Kiên Giang (Có mặt).

- Bị đơn: Ông Trần Văn N, sinh năm: 1978 và bà Huỳnh Thị T, sinh năm: 1973. Cùng địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã M, huyện H, tỉnh Kiên Giang (Vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị Thu H, sinh năm: 1968. Cùng địa chỉ: số nhà E, tổ A, ấp T, xã M, huyện H, tỉnh Kiên Giang (Vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn V, sinh năm: 1963. Địa chỉ: Số nhà E, tổ A, ấp T, xã M, huyện H, tỉnh Kiên Giang (Theo Hợp đồng ủy quyền ngày 18/01/2024) - (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/10/2023 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Nguyễn Văn V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Thu H do ông Nguyễn Văn V đại diện theo ủy quyền trình bày:

Vào ngày 06/12/2021 âl, ông Trần Văn N nhà gần nhà ông đến năn nỉ vợ chồng ông hỏi vay số tiền 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng) để mua tàu khai thác hải sản, vì là chỗ xóm giềng quen biết, nên vợ chồng ông cho ông N vay 40.000.000 đồng với lãi suất thỏa thuận là 6%/tháng.

Đến ngày 12/12/2021 âl, ông N lại đến gặp vợ chồng ông và nói là còn thiếu tiền trả tiền mua ghe và năn nỉ vay thêm 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), ông đưa thêm cho ông N vay 20.000.000 đồng. Tổng cộng hai lần, ông N vay của vợ chồng ông số tiền 60.000.000 đồng. Ông N hẹn đến tháng 04/2022 âl sẽ trả lại toàn bộ số tiền 60.000.000 đồng cho vợ chồng ông.

Sau khi nhận số tiền 60.000.000 đồng về để trả tiền mua ghe, ông N có trả cho ông được 04 tháng tiền lãi theo thỏa thuận, cho đến hết tháng 04/2022 âl, ông thấy ông N không trả lại tiền gốc cho ông. Do vậy, ông có gặp ông N để yêu cầu ông N trả tiền, thì ông N năn nỉ và xin khất lại tháng sau, nhưng sau đó ông N cũng không trả tiền cho ông. Nhiều lần vợ chồng ông gặp ông N để đòi tiền, nhưng ông N chỉ năn nỉ và hứa hoài cho đến nay đã gần hai năm rồi, nhưng ông N không trả cho vợ chồng ông được đồng nào.

Vào ngày 21/8/2023, ông có làm đơn yêu cầu Tổ hòa giải của ấp T giải quyết vụ việc trên, Ban lãnh đạo ấp T có viết giấy mời cho ông N, nhưng cả ba lần mời ông N không đến để giải quyết, nên Ban lãnh đạo ấp T có làm biên bản (có biên bản kèm theo).

Nay ông yêu cầu Tòa án buộc một mình ông Trần Văn N phải trả ngay cho vợ chồng ông số tiền vay gốc 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng) và tiền lãi từ ngày 12/12/2021 âl (nhằm ngày 14/01/2022 dl) đến nay 26/01/2024 là 24 tháng 12 ngày, trong đó ông N trả lãi được 04 tháng, do vậy ông N phải trả số tiền lãi còn lại là: 20 tháng 12 ngày x 1,5%/tháng x 60.000.000 đồng là 18.360.000 đồng. Tổng cộng là 78.360.000 đồng và yêu cầu tiếp tục tính lãi từ ngày 27/01/2024 theo mức lãi suất 1,5%/tháng cho đến khi thanh toán xong nợ cho vợ chồng ông.

* Bị đơn ông Trần Văn N và bà Huỳnh Thị T:

Bà Huỳnh Thị T trình bày tại Biên bản lấy lời khai ngày 17/01/2024: Ông Trần Văn N là chồng của bà, ông N hiện tại đang ở nhà với bà, nhưng đi làm tới chiều mới về. Các văn bản giấy tờ, Tòa án giao cho bà nhận, thì bà đã giao lại cho ông N, còn việc ông N có đi đến Tòa án không, thì bà không biết.

Việc ông N vay tiền của ông V tổng cộng số tiền 60.000.000 đồng, thì bà không biết. Nhưng sau đó, vợ ông V qua kiếm ông N nhiều lần, bà hỏi kiếm ông N có việc gì không, thì vợ ông V không trả lời. Khi ông N đi làm bên Malaysia về, thì bà có hỏi ông N có thiếu tiền ông V hả gì, mà vợ ông V cứ qua kiếm ông N vậy. Khi đó ông N nói có vay của ông V số tiền 60.000.000 đồng, bà có hỏi ông N vay tiền vào mục đích gì, thì ông N nói vay tiền giùm cho người khác. Tiếp đó, ông V qua đòi tiền nhiều lần, nhưng ông N xin trả từ từ, nhưng ông V không đồng ý. Bà có hỏi ông V, sao bà ở đây mà khi ông N vay tiền không cho bà hay, mà bây giờ qua đòi tiền vợ chồng bà, thì ông V nói ông N lớn rồi, chứ đâu phải con nít.

Từ trước đến nay, bà không có ký tên vào biên nhận nợ nào với ông V, việc ông N vay tiền của ông V giùm cho người khác, nên bà không có nghĩa vụ gì trong việc trả nợ cho ông V. Đồng thời, bà xin vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng tại Tòa án nhân dân các cấp.

Đối với ông Trần Văn N: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ đạt Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, nhưng ông N đều vắng mặt, nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông N đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa:

Ông Nguyễn Văn V, đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của vợ là bà Lê Thị Thu H yêu cầu Tòa án buộc một mình ông Trần Văn N phải trả ngay cho vợ chồng ông số tiền vay gốc 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng) và tiền lãi từ ngày 01/5/2022 âl (nhằm ngày 30/5/2022 dl) đến nay 22/3/2024 là 21 tháng 22 ngày, với lãi suất chậm trả 0,83%/tháng là 10.823.000 đồng (làm tròn 10.823.000 đồng). Tổng cộng là 70.823.000 đồng và yêu cầu tiếp tục tính lãi từ ngày 23/3/2024 theo mức lãi suất quy định của pháp luật cho đến khi thanh toán xong nợ cho vợ chồng ông.

Đại diện Viện Kiểm sát phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, HĐXX và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Tòa án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, thu thập chứng cứ đủ cơ sở để đưa vụ án ra xem xét giải quyết.

Về hướng đề nghị giải quyết nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc ông Trần Văn N phải trả cho vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Lê Thị Thu H số tiền gốc, lãi tính đến ngày xét xử là 70.823.000 đồng. Đồng thời, buộc ông Trần Văn N phải tiếp tục chịu lãi trên số tiền gốc 60.000.000 đồng theo mức lãi suất quy định của pháp luật từ ngày 23/3/2023 cho đến khi thanh toán xong nợ.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Trần Văn N phải có nghĩa vụ nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, HĐXX nhận định vụ án này như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Theo nội dung đơn khởi kiện, ông Nguyễn Văn V yêu cầu một mình ông Trần Văn N phải có nghĩa vụ trả tiền đã vay mượn. Xét thấy đây là tranh chấp hợp đồng dân sự về vay tài sản, bị đơn ông Trần Văn N có nơi cư trú tại tổ A, ấp T, xã M, huyện H, tỉnh Kiên Giang, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Trần Văn N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng vắng mặt; bà Huỳnh Thị T xin vắng mặt, nên HĐXX căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 và 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, vẫn tiếp tục xét xử vụ án vắng mặt các đương sự tại phiên tòa.

[3] Về nội dung vụ án: Qua lời khai và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, HĐXX có cơ sở xác định như sau:

Ông Trần Văn N có đến nhà vợ chồng ông V, bà H hỏi vay vợ chồng V (nhưng do một mình ông V là người đứng ra giao dịch) hai lần với tổng số tiền là 60.000.000 đồng, việc vay mượn tiền hai bên có làm Tờ ghi nợ (BL 30). Vợ chồng ông V đến nhà ông N để đòi lại số tiền cho mượn nêu trên, thì ông N cứ hứa hẹn hết lần này đến lần khác, nhưng không trả, ông N cố tình lánh mặt vợ chồng ông V, bà H nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.

Tại phiên tòa, ông Nguyễn Văn V, đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của vợ là bà Lê Thị Thu H yêu cầu Tòa án buộc một mình ông Trần Văn N phải trả ngay cho vợ chồng ông số tiền vay gốc 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng) và tiền lãi từ ngày 01/5/2022 âl (nhằm ngày 30/5/2022 dl) đến nay 22/3/2024 là 21 tháng 22 ngày, với lãi suất chậm trả 0,83%/tháng là 10.823.000 đồng (làm tròn 10.823.000 đồng). Tổng cộng là 70.823.000 đồng và yêu cầu tiếp tục tính lãi từ ngày 23/3/2024 theo mức lãi suất quy định của pháp luật cho đến khi thanh toán xong nợ cho vợ chồng ông.

[3.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn V, HĐXX thấy rằng: Tại Tờ ghi nợ ngày 06/12/2021 (âm lịch) và ngày 12/12/2021 (âm lịch), thể hiện ông Nguyễn Văn V cho ông Trần Văn N mượn số tiền hai lần tổng cộng là 60.000.000 đồng. Đồng thời, tại Biên bản lấy lời khai bà Huỳnh Thị T ngày 17/01/2024 (14-15), bà T có trình bày là ông N có nói với bà là vay của vợ chồng ông V 60.000.000 đồng. Do đó, việc yêu cầu của nguyên đơn và trình bày của bị đơn bà Huỳnh Thị T (vợ của ông N) là có sự thống nhất với nhau. Đây là các tình tiết, sự kiện được các bên đương sự thừa nhận, nên không cần chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do vậy, HĐXX có cơ sở xác định ông Trần Văn N có vay tiền của vợ chồng ông Nguyễn Văn V số tiền gốc là 60.000.000 đồng và chấp nhận yêu cầu khởi kiện này.

[3.2] Về lãi suất và số tiền lãi:

Tại phiên toà, ông V yêu cầu ông N ngoài khoản tiền gốc, còn phải trả lãi cho vợ chồng ông với lãi suất 0,83/tháng. HĐXX xét thấy, khi vợ chồng ông V cho ông N vay tiền được thể hiện trên Tờ ghi nợ (BL 30), không có thể hiện lãi suất cho vay, trong quá trình làm đơn thưa ở ấp, Tòa án, ông N vắng mặt, nên cũng không có ý kiến là việc vay có thoả thuận lãi hay không. Tại Tờ ghi nợ (BL 30) thể hiện đến tháng 4/2022 âl ông N sẽ hoàn lại số tiền mượn, nhưng không có ngày, nên áp dụng khoản 3 Điều 148 Bộ luật Dân sự 2015, thì ngày ông N vi phạm nghĩa vụ thanh toán và phải chịu lãi suất chậm trả là ngày 01/5/2022 âl (nhằm ngày 30/5/2022 dl). Nên việc ông V yêu cầu ông N phải trả lãi với mức lãi suất 0,83%/tháng là phù hợp với khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 5 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm. Do vậy, mức lãi suất và số tiền lãi cũng được HĐXX chấp nhận.

Do đó, trong quá trình nghị án và thảo luận, HĐXX có cơ sở chấp nhận đề nghị Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện nguyên đơn. Buộc ông Trần Văn N có nghĩa vụ trả cho vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Lê Thị Thu H số tiền gốc, lãi tính đến ngày xét xử (22/3/2024) là 70.823.000. Đồng thời, buộc ông Trần Văn N phải tiếp tục chịu lãi trên số tiền gốc 60.000.000 đồng theo mức lãi suất quy định từ ngày 23/3/2024 cho đến khi thanh toán xong nợ cho vợ chồng ông V, bà H.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 26, Điều 47, Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Ông Trần Văn N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm 5% trên số tiền 70.823.000 đồng phải trả cho vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Lê Thị Thu H là 3.541.150 đồng (làm tròn 3.541.000 đồng).

- Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn ông Nguyễn Văn V.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147; khoản 1 Điều 227, khoản 1 và 3 Điều 228, Điều 266, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng các các Điều 463, Điều 466, Điều 467 và Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015;

- Áp dụng khoản 1 Điều 5 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;

- Áp dụng khoản 2 Điều 26, Điều 47, Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn V về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản đối với ông Trần Văn N.

2. Buộc ông Trần Văn N có nghĩa vụ trả cho vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Lê Thị Thu H với tổng số tiền là 70.823.000đ (Bảy mươi triệu tám trăm hai mươi ba nghìn đồng). (Trong đó, tiền gốc 60.000.000 đồng, tiền lãi 10.823.000 đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Buộc ông Trần Văn N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm với số tiền 3.541.000đ (Ba triệu năm trăm bốn mươi mốt nghìn đồng).

- Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn V số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.838.000đ (Một triệu tám trăm ba mươi tám nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004122 ngày 04 tháng 01 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.

4. Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo theo hạn luật định 15 ngày kể từ ngày tuyên án (22/3/2024); Đương sự vắng mặt tại phiên tòa, thì được quyền kháng cáo Bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định pháp luật.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản số 24/2024/DS-ST

Số hiệu:24/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòn Đất - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:22/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về