Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản số 04/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 04/2023/DS-PT NGÀY 09/01/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 01 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 237/2022/TLPT- DS ngày 19 tháng 11 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 52/2022/DS-ST ngày 02/8/2022 của Toà án nhân dân huyện D bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 373/2022/QĐ-PT ngày 06 tháng 12 năm 2022; Quyết định hoãn phiên toà số: 364/2022/QĐ-PT ngày 28/12/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: ông Đặng Văn Q, sinh năm 1964 và bà Lâm Thị Thu T, sinh năm 1972; cùng trú tại: số 211/2 đường Lý Thường Kiệt, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đ.

Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1982; trú tại: tổ Tự Tạo 3, Phường 11, thành phố Đ, tỉnh Đ. Văn bản uỷ quyền ngày 03/01/2023. Có mặt.

2. Bị đơn:

2.1 Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1974; trú tại: số 1288/A Hùng Vương, thị trấn D, huyện D, tỉnh Đ. Có mặt.

2.2 Ông Trần T, sinh năm 1972; trú tại: Thôn Tân Phú 2, xã Đinh Lạc, huyện D, tỉnh Đ. Có mặt.

3. Người kháng cáo: ông Trần T - Bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H trình bày:

Do có mối quan hệ quen biết nên vào ngày 10/3/2020 vợ chồng bà Th, ông Q có cho vợ chồng bà Ng, ông Th vay số tiền 1.400.000.000đồng, mục đích vay để mua đất tại huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông. Khi vay hai bên có viết giấy vay tiền và ấn định thời hạn trả nợ vào ngày 25/3/2020, lãi suất hai bên tự thỏa thuận. Tuy nhiên, từ khi vay tiền cho đến nay vợ chồng bà Ng, ông Th không trả tiền như đã cam kết và hẹn hết lần này qua lần khác. Nay ông Q, bà Th yêu cầu ông Trần T và bà Nguyễn Thị N trả số tiền nợ gốc 1.400.000.000đồng và lãi suất phát sinh tính từ ngày 25/3/2020 đến ngày xét xử vụ án là 325.360.000đồng (1.400.000.000đ x 0,83%/tháng x 28 tháng), tổng cộng 1.725.360.000đồng.

Bị đơn bà Nguyễn Thị N trình bày:

Vào ngày 10/3/2020, vợ chồng bà có vay của ông Q, bà Th số tiền 1.400.000.000đồng để mua đất ở thôn 7, xã Quảng Khê, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông và hiện nay đã làm xong thủ tục đứng tên 02 vợ chồng. Trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Ng đồng ý trả tiền số tiền nợ gốc 1.400.000.000đồng; còn số tiền lãi 302.120.000đồng thì trước đây bà đã trả cho bà Th tiền lãi 250.000.000đồng nên đề nghị trừ số tiền lãi đã trả.

Bị đơn ông Trần T trình bày:

Giữa ông và bà Ng đã sống ly thân từ tháng 06/2021. Việc bà Ng vay tiền của ông Q, bà Th thì ông không biết. Bà Th cũng không nói gì đến việc nợ nần của bà Ng và bản thân ông cũng không sử dụng số tiền bà Ng vay của bà Th. Đến thời điểm tháng 6/2021, khi ông đi công chứng mua bán đất thì mới được biết về việc bà Th khởi kiện yêu cầu ông và bà Ng trả số tiền 1.400.000.000đồng. Do đó, trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì ông không đồng ý trả. Bà Ng vay tiền thì có trách nhiệm trả cho bà Th, ông Q.

Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không thành.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 52/2022/DS-ST ngày 02 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện D, tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn Q và bà Lâm Thị Thu T về tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

Buộc ông Trần T và bà Nguyễn Thị N trả cho ông Đặng Văn Q và bà Lâm Thị Thu T số tiền là: 1.725.360.000đồng. Trong đó tiền nợ gốc là:

1.400.000.000đồng (theo giấy vay tiền ngày 10/3/2020) và tiền nợ lãi là 325.360.000đồng.

2. Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản theo quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quyết định số: 22/2021/QĐ-BPKCTT ngày 01/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Đ.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và trách nhiệm thi hành án của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 23/9/2022, ông Trần T kháng cáo một phần Bản án sơ thẩm không đồng ý có nghĩa vụ với bà Nguyễn Thị N trả số tiền 1.725.360.000đồng cho vợ chồng ông Q, bà Ng.

Tại phiên tòa hôm nay, Bị đơn ông Trần T vẫn giữ nguyên kháng cáo.

Đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H, bị đơn bà Nguyễn Thị N không đồng ý kháng cáo của bị đơn ông Th đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ phát biểu: Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự cũng đã chấp hành đầy đủ giấy báo của Tòa án, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên tòa phúc thẩm. Về nội dung: Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và qua tranh tụng công khai tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Đơn kháng cáo của ông Trần T trong thời hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên được chấp nhận giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[1.2] Về quan hệ tranh chấp: Xuất phát từ việc nguyên đơn ông Nguyễn Văn Q và bà Lâm Thị Thu T cho bà Nguyễn Thị N, ông Trần T vay số tiền 1.400.000.000đồng vào ngày 10/3/2020, hẹn 15 ngày sau sẽ trả, nhưng đến thời hạn trả nợ ông Th, bà Ng không trả tiền như đã cam kết nên ông Q, bà Th khởi kiện yêu cầu ông Th, bà Ng trả số tiền gốc 1.400.000.000đồng và tiền lãi phát sinh. Bị đơn bà Ng cho rằng bà đã trả 250.000.000đồng tiền lãi nên đề nghị cấn trừ số tiền lãi này và đồng ý trả số tiền nợ gốc 1.400.000.000đồng; còn bị đơn ông Th cho rằng việc bà Ng vay tiền của ông Q, bà Th ông không liên quan vì vậy không đồng ý trả theo yêu cầu của nguyên đơn nên các bên phát sinh tranh chấp. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” là có căn cứ.

[2] Về nội dung:

[2.1] Sau khi xét xử sơ thẩm bị đơn bà Nguyễn Thị N không kháng cáo về nghĩa vụ trả số tiền nợ 1.725.360.000đ (một tỷ bảy trăm hai mươi lăm triệu ba trăm sáu mươi nghìn đồng) cho ông Đặng Văn Q và bà Lâm Thị Thu T và không bị kháng nghị nên phần nghĩa vụ của bà Ng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[2.2] Xét kháng cáo của ông Trần T thấy rằng:

Theo giấy vay tiền ngày 10/3/2020 giữa bên cho vay bà Lâm Thị Thu T và bên vay bà Nguyễn Thị N, theo đó bà Th cho bà Ng vay số tiền 1.400.000.000đồng, thời hạn vay đến ngày 25/3/2020. Từ khi vay tiền cho đến nay bà Ng, ông Th không trả tiền cho bà Th như đã cam kết. Bị đơn bà Ng thừa nhận có vay của bà Th số tiền 1.400.000.000đồng và đã trả cho bà Th 250.000.000đồng tiền lãi; còn ông Trần T cho rằng việc bà Ng vay tiền của bà Th thì ông không biết và không sử dụng số tiền này nên không đồng ý có nghĩa vụ cùng bà Ng trả số tiền nợ trên nên phát sinh tranh chấp.

Tại phiên toà, bà Ng thừa nhận bà vay tiền của bà Th nhiều lần và đến ngày 10/3/2020 hai bên chốt nợ 1.400.000.000đồng, mục đích vay tiền là để mua đất tại huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông và hiện nay đã hoàn thành các thủ liên quan để đứng tên ông Trần T, bà Nguyễn Thị N. Ông Th cũng thừa nhận vợ chồng ông có mua đất tại huyện Đắk Glong, huyện Đắc Nông từ năm 2017. Qua xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện, mặc dù trên giấy vay tiền ngày 10/3/2020 chỉ có bà Ng ký tên bên vay tiền và mục đích vay nhằm sử dụng cho việc mua đất tại tỉnh Đăk Nông phục vụ kinh tế của gia đình và khoản vay này được hình thành trong thời kỳ hôn nhân và hiện nay các tài sản chung giữa ông Th và bà Ng chưa chia, kể cả phần diện tích đất mua tại huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông đang làm thủ tục để đứng tên bà Ng, ông Q. Như vậy, có cơ sở khẳng định đây là khoản nợ chung của bà Ng và ông Th. Cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Q, bà Th và buộc ông Th, bà Ng có nghĩa vụ trả số tiền nợ gốc 1.400.000.000đồng và lãi phát sinh là có căn cứ. [2.3] Về lãi suất:

Bà Ng cho rằng trong số tiền vay 1.400.000.000đồng là bao gồm 250.000.000đồng tiền lãi bà trả cho bà Ng nên đề nghị cấn trừ số tiền lãi này. Qua xem xét giấy vay tiền ngày 10/3/2020 chỉ thể hiện nội dung vay tiền và không có tài liệu nào thể hiện bà Ng sau khi vay đã trả cho bà Th, ông Q 250.000.000đồng. Mặt khác giấy vay tiền cũng không thể hiện lãi suất cụ thể, do đó cấp sơ thẩm xác định số tiền lãi: 1.400.000.000đồng x 0,83%/tháng x 28 tháng = 325.360.000đồng là phù hợp quy định pháp luật.

[2.4] Từ những phân tích trên, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Trần T, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3.] Về biện pháp khẩn cấp tạm thời: Quá trình giải quyết vụ án, Toà án cấp sơ thẩm đã ban hành Quyết định số 22/2021/QĐ-BPKCTT ngày 01/6/2021 về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp thời “Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ”, xét việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là đúng quy định và cần thiết nhằm đảm bảo cho việc thi hành án nên cần tiếp tục duy trì.

Việc hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nêu trên được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[4] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Trần T phải chịu 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Trần T, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 52/2022/DS-ST ngày 02/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện D.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn Q và bà Lâm Thị Thu T về việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” với bị đơn bà Nguyễn Thị N, ông Trần T.

Buộc ông Trần T và bà Nguyễn Thị N trả cho ông Đặng Văn Q và bà Lâm Thị Thu T số tiền là: 1.725.360.000đồng. Trong đó, nợ gốc: 1.400.000.000đồng và tiền lãi 325.360.000đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự.

2. Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Quyết định số: 22/2021/QĐ-BPKCTT ngày 01/6/2021 của Toà án nhân dân huyện D về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ”.

Việc hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời và Quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm số 16/2021/QĐ-BPBĐ ngày 01 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện D được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

3. Về án phí:

Án phí dân sự phúc thẩm: Buộc ông Trần T phải chịu 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng mà ông Trần T đã tạm nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006902 ngày 25/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D. ông Th đã nộp đủ tiền án phí dân sự phúc thẩm và đã thi hành xong.

Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Trần T và bà Nguyễn Thị N chịu 63.760.800đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho ông Đặng Văn Q và bà Lâm Thị Thu T số tiền tạm ứng án phí là 29.440.000đồng theo biên lai thu tiền số AA/2017/0005666 ngày 01/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7,7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản số 04/2023/DS-PT

Số hiệu:04/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lâm Đồng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:09/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về