Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự số 24/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 24/2023/DS-ST NGÀY 30/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ

Trong ngày 30 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 64/2022/TLST-DS ngày 24 tháng 5 năm 2022 về việc tranh chấp hợp đồng dân sự theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2023/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 7 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 64/2023/QĐST-DS ngày 10 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phan Thanh N, sinh năm 1966 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp H, xã L, thị xã L, tỉnh H.

2. Bị đơn: Bà Hồ Thị Bé E, sinh năm 1964 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp H, xã L, thị xã L, tỉnh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện quá trình tố tụng tại Tòa án nguyên đơn bà Phan Thanh N trình bày:

Tôi làm chủ hụi của nhiều dây hụi tháng. Trong quá trình làm chủ hụi bà Hồ Thị Bé E có tham gia hụi 1.000.000 đồng/tháng và hụi tuần. Bà Hồ Thị Bé E đã hốt hụi, tôi đã giao đầy đủ tiền hụi chi bà Hồ Thị Bé E, nhưng sau đó bà Hồ Thị Bé E không đóng lại tiền hụi chết cho tôi. Bà Bé E tham gia 03 dây hụi cụ thể như sau:

Dây hụi 1.000.000 đồng/tháng, mở ngày 19/3/2018 âm lịch, hụi có 33 phần, bà B Em tham gia 01 phần, còn nợ lại 05 lần hụi chết với số tiền 5.000.000đồng.

Dây hụi 1.000.000đồng/nửa tháng, mở 19/8/2019 âm lịch, hụi có 34 phần, tôi và bà B Em hùn 01 phần, đóng được 28 lần, còn nợ lại số tiền 1.000.000đồng.

Dây hụi 200.000đồng/tuần, mở ngày 29/4/2020 âm lịch, hụi có 40 phần bà B Em tham gia 01 phần, bà B Em đóng được 07 lần sống, hốt lần thứ 08, còn nợ được số tiền 6.200.000đồng, còn nợ lại 25 lần hụi chết với số tiền 5.000.000đồng.

Theo đơn khởi kiện, bà N yêu cầu Tòa án nhân dân thị xã L giải quyết buộc bà Hồ Thị Bé E phải trả cho bà N số tiền hụi còn nợ tổng cộng 19.000.000đồng. Quá trình tố tụng, bà N chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Hồ Thị Bé E phải trả cho bà N số tiền nợ hụi là 11.000.000đồng.

Bị đơn bà Hồ Thị Bé E vắng mặt, trình bày ý kiến tại phiên tòa ngày 29/8/2022: Bà Bé E thừa nhận có tham gia 03 dây hụi như lời trình bày của nguyên đơn bà Phan Thanh N. Tuy nhiên, về số tiền còn nợ không thống nhất. Bà Bé E xác định còn nợ bà N cụ thể như sau:

Đối với dây hụi 1.000.000đồng/tháng, mở ngày 19/3/2018 âm lịch, hụi có 33 phần tôi tham gia 01 phần, còn nợ lại 03 lần hụi chết với số tiền 3.000.000đồng.

Đối với dây hụi 1.000.000đồng/nửa tháng mở ngày 19/8/2019 âm lịch, hụi có 34 phần, tôi và bà N hùn 01 phần, còn nợ lại số tiền 1.000.000đồng Đối với dây hụi 200.000đồng/tuần mở ngày 29/4/2020 âm lịch, hụi có 40 phần tôi tham gia 01 phần, tôi chỉ còn nợ 02 tuần với số tiền 400.000đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, tỉnh H phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký chấp hành đúng quy định pháp luật, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Đối với nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn không chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, vắng mặt nhiều lần trong quá trình giải quyết vụ án.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bà Hồ Thị Bé E trả cho bà Phan Thanh N số tiền 4.400.000 đồng. về án phí dân sự sơ thẩm: Các đương sự phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ đã thể hiện trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, tranh luận tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại Tòa án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn bà Phan Thanh N khởi kiện bị đơn bà Hồ Thị Bé E yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn phải trả số tiền nợ hụi nên xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là “tranh chấp hợp đồng dân sự” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thị xã L, tỉnh H theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Hồ Thị Bé E được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thanh N yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn bà Hồ Thị Bé E phải trả số tiền nợ hụi là 19.000.000đồng. Quá trình tố tụng, nguyên đơn chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn trả lại số tiền 11.000.000đồng, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với số tiền 8.000.000đồng đã rút lại.

[4] Qua nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện bà Hồ Thị Bé E có tham gia chơi hụi do bà Phan Thanh N làm chủ. Đối với 03 dây hụi cụ thể như sau: Đối với dây hụi 1.000.000đồng/tháng, mở ngày 19/3/2018 âm lịch, hụi có 33 phần bà B Em tham gia 01 phần. Đối với dây hụi 1.000.000đồng/nửa tháng, mở ngày 19/8/2019 âm lịch, hụi có 34 phần, bà E và bà N hùn tham gia 01 phần. Đối với dây hụi 200.000đồng/tuần mở ngày 29/4/2020 âm lịch, hụi có 40 phần bà B Em tham gia 01 phần. Các dây hụi nêu trên bà Bé E đều thừa nhận đã hốt.

[5] Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn không cung cấp được Giấy biên nhận chứng minh về việc giao, nhận tiền có chữ ký của nguyên đơn, bị đơn theo Điều 13 Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019. Nguyên đơn chỉ cung cấp cho Tòa án giấy hụi, sổ theo dõi hụi do nguyên đơn tự viết. Quá trình tố tụng, Tòa án đã ngừng phiên tòa để nguyên đơn cung cấp thêm tài liệu chứng cứ, nhưng nguyên đơn không cung cấp thêm được giấy tờ gì để chứng minh được đã giao đủ số tiền hụi cho bị đơn, số tiền bị đơn đã đóng, quá trình tố tụng bị đơn vắng mặt không tiến hành đối chất được số tiền đã giao, số tiền đã nhận, số tiền đã đóng cho nguyên đơn. Do đó, không đủ cơ sở chứng minh được số tiền bị đơn còn thiếu nguyên đơn là 11.000.000đồng. Bị đơn chỉ thừa nhận nợ với số tiền 4.400.000đồng. Do đó, có căn cứ buộc bị đơn phải có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn số tiền 4.400.000đồng, phần còn lại không có cơ sở chấp nhận, về lãi suất: nguyên đơn không có yêu cầu nên không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2, khoản 5 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

[6.1] Buộc nguyên đơn phải chịu án phí đối với yêu cầu của nguyên đơn không được Tòa án chấp nhận 6.600.000đồng x 5% = 330.000đồng.

[6.2] Bị đơn chịu án phí đối với yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận với số tiền 300.000đồng.

[7] Từ những nhận định trên, xét thấy quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39; Điều 147, Điều 217, 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 468, 471, 688 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 25, 27 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày ngày 27 tháng 11 năm 2006; Điều 13, 16, 17, 18 Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 về họ, hụi, biêu, phường; Điều 26 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[2] Tuyên xử:

[2.1] Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thanh N đối với số tiền 8.000.000 đồng.

[2.2] Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thanh N. Buộc bị đơn bà Hồ Thị Bé E có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn bà Phan Thanh N số tiền 4.400.000 đồng (bốn triệu bốn trăm nghìn đồng). Nguyên đơn không có yêu cầu tính lãi suất nên không xem xét.

[3] Kể từ ngày người có quyền yêu cầu thi hành cán có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người có nghĩa vụ thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì người có nghĩa vụ thi hành án còn phải chịu lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm:

[4.1] Nguyên đơn bà Phan Thanh N phải chịu 330.000đồng (ba trăm ba mươi nghìn đồng), bà N được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0004267 ngày 24 tháng 5 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã L, tỉnh H. Bà Phan Thanh N phải nộp thêm số tiền 30.000 đồng (ba mươi nghìn đồng).

[4.2] Bị đơn bà Hồ Thị Bé E phải nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

[5] Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[6] Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự số 24/2023/DS-ST

Số hiệu:24/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Long Mỹ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về