TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 04/2022/KDTM-PT NGÀY 05/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ CUNG ỨNG TIÊU THỤ HÀNG HÓA
Trong ngày 05 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh A xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 01/2022/TLPT- KDTM ngày 08 tháng 02 năm 2022 về việc tranh chấp “Hợp đồng đại lý về cung ứng tiêu thụ hàng hóa”.
Do Bản kinh doanh thương mại sơ thẩm số 05/2021/KDTM-ST ngày 16 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh A bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 01/2022/QĐXXPT- KDTM ngày 21 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/QĐ-PT ngày 12 tháng 4 năm 2022, giữa:
1. Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Đầu Tư H;
Địa chỉ: Đường số 8, Lô B14 Khu công nghiệp P, xã P, huyện B, Thành phố M.
Đại diện theo pháp luật: Ông Đặng Hồng H – Chức vụ: Tổng Giám đốc; Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Phạm Quốc C, sinh năm 1978. Chức vụ: Giám đốc hành chuyên nhân sự của Công ty Cổ phần Đầu Tư H. Địa chỉ: 80/14, bà Huyện Thanh Q, Phường 9, Quận 3, Thành Phố M (Văn bản ủy quyền số 03/2021/UQ.TH ngày 22/02/2021 của Tổng giám đốc Công ty H).
2. Bị đơn: Hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH, sinh năm 1981 là đại diện hộ kinh doanh.
Địa chỉ: Số 325, tổ 7, ấp Đ B, xã T, huyện P, tỉnh A; số điện thoại: 0979540022.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Bé B, sinh năm 1983. Nơi cư trú: Số 325, tổ 7, ấp Đ B, xã T, huyện P, tỉnh A.
4. Người kháng cáo: Hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH là đại diện hộ kinh doanh là bị đơn trong vụ án và bà Nguyễn Thị Bé B là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Tại phiên tòa có mặt ông Phạm Quốc C; vắng mặt ông Lê Khắc CH và bà Nguyễn Thị Bé B (ông CH và bà B có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung án sơ thẩm:
Căn cứ đơn khởi kiện ngày 22/2/2021, đơn khởi kiện bổ sung 01/3/2021, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn do ông Phạm Quốc C trình bày:
Ngày 02/01/2019, Công ty Cổ phần Đầu Tư H có ký Hợp đồng đại lý số 55/HDĐL.HT/2019 với Hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH đại diện chủ hộ kinh doanh (theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh cá thể số 52.E8001312 ngày 19/5/2004 do Ủy ban nhân huyện P, tỉnh A cấp) để cung cấp và tiêu thụ các sản phẩm của Công ty Cổ phần Đầu Tư H với các loại sản phẩm hàng hóa là nông dược và sức khỏe cộng đồng.
Trong quá trình thực hiện Hợp đồng đại lý số 55/HDĐL.HT/2019, Công ty Cổ phần Đầu Tư H đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quy định trong hợp đồng. Tuy nhiên, Hộ kinh doanh do ông Lê Khắc CH đại diện đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán tiền hàng theo thỏa thuận.
Căn cứ biên bản đối chiếu công nợ từ ngày 01/01/2020 đến ngày 10/9/2020 xác định: Hộ kinh doanh Lê Khắc CH còn nợ Công ty tổng số tiền là 2.359.178.456 đồng (do ông Lê Khắc CH trực tiếp ký xác nhận công nợ ngày 17/9/2020). Từ ngày 24/9/2020 đến ngày 29/01/2021, Hộ kinh doanh Lê Khắc CH đã thanh toán và cấn trừ công nợ được 883.663.083 đồng. Như vậy, tính đến ngày 22/02/2021 Hộ kinh doanh Lê Khắc CH còn nợ Công ty Cổ phần Đầu Tư H số tiền là 1.475.515.373 đồng. Bà Nguyễn Thị Bé B là vợ ông Lê Khắc CH, trong quá trình thực hiện hợp đồng nêu trên thì bà Nguyễn Thị Bé B biết rõ và có tham gia trực tiếp nhận hàng hóa của công ty, được chứng minh tại hóa đơn giá trị gia tăng ký hiệu HT/18P số 0014760 và HT/18P số 0014762 do bà Nguyễn Thị Bé B ký nhận trực tiếp mua nhận hàng.
Nay yêu cầu: Buộc Hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH đại diện và bà Nguyễn Thị Bé B liên đới chịu trách nhiệm thanh toán cho Công ty Cổ phần Đầu Tư H số tiền vốn gốc là 1.475.515.373 đồng và tiền lãi do chậm thanh toán tạm tính từ ngày 10/9/2020 đến ngày 22/02/2021 là 66.701.380 đồng.
Tổng cộng vốn và lãi là 1.542.216.753 đồng. Ngoài ra không có yêu cầu nào khác.
Tại bản tự khai và tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Quách Thanh PH trình bày: thống nhất và xác nhận ngày 02/01/2019, Hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH đại diện có ký Hợp đồng đại lý số 55/HDĐL.HT/2019 với Công ty Cổ phần Đầu Tư H để làm đại lý cung ứng tiêu thụ hàng hóa là các loại sản phẩm hàng hóa. Quá trình thực hiện hợp đồng, hai bên đã lập biên bản đối chiếu công nợ từ ngày 01/01/2020 đến ngày 10/9/2020, xác định: Hộ kinh doanh Lê Khắc CH còn nợ Công ty tổng số tiền là 2.359.178.456 đồng (do ông Lê Khắc CH trực tiếp ký xác nhận công nợ ngày 17/9/2020). Sau khi đối chiếu công nợ, thì từ ngày ngày 24/9/2020 đến ngày 29/01/2021, ông Lê Khắc CH đã thanh toán và cấn trừ công nợ được 883.663.083 đồng. Tính đến nay, Hộ kinh doanh Lê Khắc CH còn nợ Công ty Cổ phần Đầu Tư H số tiền gốc là 1.475.515.373 đồng. Nay ông CH đồng ý tự chịu trách nhiệm cá nhân trả cho Công ty, xin miễn trả lãi.
Tuy nhiên, việc mua bán không thuận lợi do ảnh hưởng của dịch Covid 19 nên hàng hóa hiện còn tồn kho với giá trị 243.394.000 đồng. Do đó, yêu cầu Công ty Cổ phần Đầu Tư H nhận lại số hàng này và khấu trừ vào số tiền vốn ông CH còn nợ. Ngoài ra, không có yêu cầu nào khác.
Tại bản tự khai của bà Nguyễn Thị Bé B trình bày: bà và ông CH là vợ chồng; bà không biết việc ông CH ký kết hợp đồng đại lý với Công ty Cổ phần Đầu Tư H nên bà không đồng ý cùng chịu trách nhiệm liên đới với ông CH trả nợ. Ngoài ra, không có yêu cầu nào khác
Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 05/2021/KDTM-ST ngày 16 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh A tuyên xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Công ty Cổ phần Đầu Tư H; về việc yêu cầu Hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH đại diện và bà Nguyễn Thị Bé B liên đới chịu trách nhiệm thanh toán số tiền vốn và lãi chậm thanh toán theo hợp đồng đại lý số 55/HDĐL.HT/2019 ngày 02/01/2019 hai bên ký kết.
Buộc Hộ kinh doanh cá thể Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH đại diện hộ kinh doanh và bà Nguyễn Thị Bé B có trách nhiệm cùng liên đới trả cho Công ty Cổ phần Đầu Tư H số tiền nợ gốc là 1.475.515.373 đồng, lãi suất phát sinh đến ngày xét xử 16/11/2021 là 174.636.340 đồng. Tổng cộng vốn, lãi là 1.650.151.713 đồng.
Đồng thời, Hộ kinh doanh cá thể Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH đại diện hộ kinh doanh và bà Nguyễn Thị Bé B có trách nhiệm cùng liên đới trả cho Công ty Cổ phần Đầu Tư H số tiền lãi phát sinh kể từ ngày 17/11/2021 theo hợp đồng đại lý số 55/HDĐL.HT/2019 ngày 02/01/2019.
Kể từ ngày Công ty Cổ phần Đầu Tư H có đơn yêu cầu thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền) thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Theo đơn kháng cáo của hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH là đại diện hộ kinh doanh và bà Nguyễn Thị Bé B: Kháng cáo đối với bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 05/2021/KDTM-ST ngày 16 tháng 11 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện P.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn trình bày: Giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, thống nhất với bản án sơ thẩm.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Do hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH là đại diện hộ kinh doanh và bà Nguyễn Thị Bé B kháng cao nhưng không cung cấp được tại liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH là đại diện hộ kinh doanh và bà Nguyễn Thị Bé B.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH là đại diện hộ kinh doanh và bà Nguyễn Thị Bé B trong hạn luật định có nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nên được Hội đồng xét xử chấp nhận, xét xử theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH là đại diện hộ kinh doanh và bà Nguyễn Thị Bé B và chứng cứ liên quan, Hội đồng xét xử xét thấy:
Quá trình giải quyết vụ án bị đơn thừa nhận bản đối chiếu công nợ từ ngày 01/01/2020 đến ngày 10/9/2020 Hộ kinh doanh Lê Khắc CH còn nợ công ty 2.359.178.456 đồng đã trả được 883.663.083 đồng còn nợ 1.475.515.373 đồng (tại biên bản xác nhận công nợ ngày 17/9/2020). Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 16/11/2021 phía bị đơn thừa nhận nợ nhưng xin lãi.
Xét yêu cầu kháng cáo của các đương sự nhận thấy: Hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH đại diện có ký Hợp đồng đại lý số 55/HDĐL.HT/2019 với Công ty Cổ phần Đầu Tư H để làm đại lý cung ứng tiêu thụ hàng hóa. Hợp đồng được ký kết trên cơ sở tự nguyện, phù hợp pháp luật.
Tại phiên tòa phía nguyên đơn cho rằng đã nhắc nhở nhiều lần và tạo điều kiện để phía bị đơn trả nợ, nhưng phía bị đơn không có thiện chí muốn kéo dài thời gian trả nợ. Về lãi suất đã ghi rõ trong Hợp đồng đại lý số 55/HDĐL.HT/2019, nhưng phía nguyên đơn chỉ yêu cầu tính lãi 10%/năm là thấp hơn lãi suất theo thỏa thuận để cho phía bị đơn có điều kiện trả nợ, nên việc xin lãi của bị đơn, nguyên đơn không đồng ý.
Đối với kháng cáo của bà Nguyễn Thị Bé B, Hội đồng xét xử xét thấy Hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH đại diện, mục đích kinh doanh là để phát triển kinh tế gia đình, quá trình kinh doanh bà Bé B là vợ hợp pháp cùng sống chung trong gia đình biết rõ và có cùng chồng tham gia kinh doanh thể hiện qua các hóa đơn giá trị gia tăng mà bà Bé B ký với tư cách người mua hàng với Công ty Cổ phần Đầu Tư H.
Do đó cấp sơ thẩm xét xử buộc Hộ kinh doanh cá thể Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH đại diện hộ kinh doanh và bà Nguyễn Thị Bé B có trách nhiệm cùng liên đới trả cho Công ty Cổ phần Đầu Tư H là có cơ sở.
Tại phiên tòa phúc thẩm ông Lê Khắc CH và bà Nguyễn Thị Bé B vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt), nhưng không cung cấp tài liệu chứng cứ cho việc kháng cáo nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét. Cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
Tuy nhiên phần Quyết định bản án sơ thẩm ghi “Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Công ty Cổ phần Đầu Tư H; về việc yêu cầu Hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH đại diện và bà Nguyễn Thị Bé B liên đới chịu trách nhiệm thanh toán số tiền vốn và lãi chậm thanh toán theo hợp đồng đại lý số 55/HDĐL.HT/2019 ngày 02/01/2019 hai bên ký kết” và “Đồng thời, Hộ kinh doanh cá thể Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH đại diện hộ kinh doanh và bà Nguyễn Thị Bé B có trách nhiệm cùng liên đới trả cho Công ty Cổ phần Đầu Tư H số tiền lãi phát sinh kể từ ngày 17/11/2021 theo hợp đồng đại lý số 55/HDĐL.HT/2019 ngày 02/01/2019” là chưa đúng, vì nguyên đơn yêu cầu tính lãi 10%/năm.
Quyết định bản án còn ghi “Kể từ ngày Công ty Cổ phần Đầu Tư H có đơn yêu cầu thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền) thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015”.
Vì vậy cần sửa phần quyết định của bản án sơ thẩm là bỏ đoạn “theo hợp đồng đại lý số 55/HDĐL.HT/2019 ngày 02/01/2019 hai bên ký kết” và “Đồng thời, Hộ kinh doanh cá thể Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH đại diện hộ kinh doanh và bà Nguyễn Thị Bé B có trách nhiệm cùng liên đới trả cho Công ty Cổ phần Đầu Tư H số tiền lãi phát sinh kể từ ngày 17/11/2021 theo hợp đồng đại lý số 55/HDĐL.HT/2019 ngày 02/01/2019” các phần quyết định khác được giữ nguyên.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH là đại diện hộ kinh doanh và bà Nguyễn Thị Bé B.
Phúc xử:
Sửa bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 05/2021/KDTM-ST ngày 16 tháng 11 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện P, tỉnh A về cách tuyên án, phần quyết định của bản án sơ thẩm.
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Công ty Cổ phần Đầu Tư H; về việc yêu cầu Hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH đại diện và bà Nguyễn Thị Bé B liên đới chịu trách nhiệm thanh toán số tiền vốn và lãi chậm thanh toán.
Buộc Hộ kinh doanh cá thể Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH đại diện hộ kinh doanh và bà Nguyễn Thị Bé B có trách nhiệm cùng liên đới trả cho Công ty Cổ phần Đầu Tư H số tiền nợ gốc là 1.475.515.373 đồng, lãi suất phát sinh đến ngày xét xử 16/11/2021 là 174.636.340 đồng. Tổng cộng vốn, lãi là 1.650.151.713 đồng.
Kể từ ngày Công ty Cổ phần Đầu Tư H có đơn yêu cầu thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền) thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
- Về án phí sơ thẩm:
Công ty Cổ phần Đầu Tư H không phải chịu án phí nên được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp là 29.200.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001867 ngày 24 tháng 02 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện P, tỉnh A.
Hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH đại diện hộ kinh doanh và bà Nguyễn Thị Bé B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 61.504.550 đồng.
- Về án phí dân sự phúc thẩm:
Hộ kinh doanh Lê Khắc CH do ông Lê Khắc CH đại diện hộ kinh doanh phải chịu số tiền 2.000.000 (hai triệu) đồng, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004183 ngày 06/12/2021 và 0004280 ngày 21/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P (ông CH đã nộp đủ);
Bà Nguyễn Thị Bé B phải chịu số tiền 2.000.000 (hai triệu) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004219 ngày 21/12/2021 và 0004279 ngày 21/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P (bà B đã nộp đủ).
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng đại lý cung ứng tiêu thụ hàng hóa số 04/2022/KDTM-PT
Số hiệu: | 04/2022/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân An Giang |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 05/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về