TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 04/2022/DS-ST NGÀY 27/01/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ THANH TOÁN QUA TÀI KHOẢN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
Ngày 27 tháng 01 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 136/2021/TLST-DS ngày 14 tháng 10 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản không dùng tiền mặt” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2021/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2022/QĐST-DS ngày 13 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Q; Địa chỉ: Tầng 1, 2, S, phường B, quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Ngọc C – Chức vụ:
Nhân viên (Theo giấy ủy quyền số 63297.21ngày 23.9.2021) (Có mặt)
- Bị đơn: Ông Hồ Phú L – sinh năm 1983; Trú tại: Tổ 28, phường H, quận L, TP. Đà Nẵng. (Vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
1 * Theo Đơn khởi kiện gửi đến Tòa án ngày 12 tháng 10 năm 2021, tại Bản tự khai ngày 27 tháng 01 năm 2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Quá trình thực hiện Hợp đồng mở và sử dụng tài khoản:
Ngày 02/12/2020, ông Hồ Phú L khởi tạo phát hành thẻ tín dụng trực tuyến. Ngày 06/12/2020, ông Hồ Phú L ký Đề nghị phát hành thẻ tín dụng quốc tế kiêm Hợp đồng mở và sử dụng tài khoản với VIB về việc sử dụng thẻ tín dụng. VIB đồng ý cấp thẻ tín dụng cho ông Hồ Phú L, chi tiết thẻ như sau:
• Thẻ tín dụng số: 5268873000349304;
• Loại thẻ: Thẻ tín dụng quốc tế VIB MC ONLINE PLUS;
• Ngày cấp: 09/12/2020; hạn mức thẻ: 42.000.000 đồng;
• Lãi suất, phí: theo Bản chấp thuận về điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng VIB Quá trình thực hiện Hợp đồng, sử dụng thẻ tín dụng, ông Hồ Phú L đã vi phạm nội dung thỏa thuận tại Hợp đồng mở và sử dụng tài khoản ngày 06/12/2020. Vì vậy, VIB đã chuyển khoản dư nợ thẻ trên thành khoản nợ quá hạn từ ngày 10/4/2021.
Tạm tính đến ngày 15/08/2021, ông Hồ Phú L hiện còn nợ VIB số tiền 60.647.195 đồng (Sáu mươi triệu sáu trăm bốn mươi bảy nghìn một trăm chín mươi lăm đồng), bao gồm: Nợ gốc 41.814.700 đồng; Nợ lãi 6.090.307 đồng; Nợ phí: 12.742.188 đồng.
Yêu cầu:
- Buộc ông Hồ Phú L phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP Q ngay sau khi Bản án/Quyết định có hiệu lực thi hành, số tiền tạm tính đến ngày 15/08/2021 là:
60.647.195 đồng (Sáu mươi triệu sáu trăm bốn mươi bảy nghìn một trăm chín mươi lăm đồng), bao gồm: Nợ gốc 41.814.700 đồng; Nợ lãi 6.090.307 đồng; Nợ phí: 12.742.188 đồng.
- Đề nghị Quý Tòa tiếp tục tính lãi, lãi quá hạn, phí kể từ ngày 16/08/2021 cho đến khi ông Hồ Phú L thanh toán xong toàn bộ khoản nợ theo quy định tại Đề nghị phát hành thẻ tín dụng quốc tế kiêm Hợp đồng mở và sử dụng tài khoản ngày 06/12/2020.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên buộc ông L trả số tiền nợ tính đến ngày xét xử (27/01/2022) là 86.126.929 đồng trong đó: nợ gốc 41.814.700 đồng, nợ lãi là 13.678.817 đồng và nợ phí: 30.633.412 đồng.
* Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn – ông Hồ Phú L không có ý kiến trình bày gửi đến Tòa án.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận L Chiểu phát biểu:
Thẩm phán đã thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định tại Điều 48; đảm bảo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 51 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các nguyên tắc xét xử, đảm bảo các bên đương sự được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ, việc hỏi và tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành khách quan, đúng trình tự. Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các điều 70, 71 và 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn – ông L vắng mặt lần hai, không có lý do nên phải chịu hậu quả pháp lý về việc vắng mặt. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các 280 Bộ luật Dân sự chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả toàn bộ số tiền nợ gốc và lãi tính đến ngày xét xử là 27/01/2022) là 86.126.929 đồng trong đó: nợ gốc 41.814.700 đồng, nợ lãi là 13.678.817 đồng và nợ phí: 30.633.412 đồng và tiếp tục trả lãi đối với khoản tiền gốc từ ngày 28 tháng 01 năm 2022 cho đến khi trả dứt điểm nợ cho Ngân hàng theo hợp đồng cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản đã ký.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn – ông Hồ Phú L đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vẫn vắng mặt, không có lý do. Áp dụng khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông L.
Về quan hệ pháp luật: Ông Hồ Phú L được Ngân hàng cấp thẻ tín dụng quốc tế trên cơ sở yêu cầu trực tuyến của ông L về khởi tạo thẻ tín dụng. Trong quá trình sử dụng thẻ, ông L hoàn toàn không rút tiền mặt. Điều này phù hợp với quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 14 Nghị định 101/2021/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt. Do đó, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là “Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản không dùng tiền mặt”.
[2] Về nội dung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ do Ngân hàng cung cấp có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:
Ngày 02/12/2020, ông Hồ Phú L khởi tạo phát hành thẻ tín dụng trực tuyến. Ngày 06/12/2020, ông Hồ Phú L ký Đề nghị phát hành thẻ tín dụng quốc tế kiêm Hợp đồng mở và sử dụng tài khoản với VIB về việc sử dụng thẻ tín dụng. VIB đồng ý cấp thẻ tín dụng cho ông Hồ Phú L, chi tiết thẻ như sau: Thẻ tín dụng số: 5268873000349304; Loại thẻ: Thẻ tín dụng quốc tế VIB MC ONLINE PLUS; Ngày cấp: 09/12/2020; hạn mức thẻ: 42.000.000 đồng; Lãi suất, phí: theo Bản chấp thuận về điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng VIB. Hội đồng xét xử xét thấy các bên đã tự nguyện ký kết hợp đồng với nội dung không trái các quy định của pháp luật nên công nhận hợp đồng cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản giữa Ngân hàng và ông L là hợp pháp.
Trong quá trình sử dụng thẻ tín dụng, đến ngày 10/4/2021, ông L không thực hiện việc thanh toán lãi và vốn theo cam kết cho Ngân hàng. Vì vậy, ông L đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế đã ký được quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật tổ chức tín dụng; Điều 280 của Bộ luật dân sự năm 2015; điểm b, khoản 1 Điều 14 Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt nên cần được chấp nhận, buộc ông L phải thanh toán toàn bộ số tiền 86.126.929 đồng trong đó: nợ gốc 41.814.700 đồng, nợ lãi là 13.678.817 đồng và nợ phí: 30.633.412 đồng Lãi được tiếp tục tính từ ngày 28 tháng 01 năm 2022 theo mức lãi suất do Ngân hàng và ông L đã thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng trên số tiền nợ gốc chưa thanh toán cho đến khi thi hành án xong.
[3] Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 86.126.929 đồng X 5% = 4.306.346 đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 280 Bộ luật Dân sự; Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng; Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 92, khoản 2 Điều 227, các điều 235 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Q đối với ông Hồ Phú L về việc “Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản không dùng tiền mặt”.
Xử: Buộc ông Hồ Phú L phải thanh toán cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Q tổng cộng: 86.126.929 đồng trong đó: nợ gốc 41.814.700 đồng, nợ lãi là 13.678.817 đồng (tạm tính đến ngày 27/01/2022) và nợ phí: 30.633.412 đồng Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm(28/01/2022), ông L còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc.Trường hợp trong hợp đồng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay, thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
2. Án phí dân sự sơ thẩm là 4.306.346 đồng ông Hồ Phú L phải chịu.
Hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Q số tiền tạm ứng án phí 1.516.179 đồng đã nộp tại biên lai thu số 0000022 ngày 14 tháng 10 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu.
Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự
Bản án về tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản không dùng tiền mặt số 04/2022/DS-ST
Số hiệu: | 04/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về