TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH HÀ GIANG
BẢN ÁN 03/2022/KDTM-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ
Ngày 30 tháng 9 năm 2022 tại Hội trường xét xử dân sự Toà án nhân dân thành phố H, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án KDTM thụ lý số: 02/2022/TLST-KDTM, ngày 20 tháng 6 năm 2022 về việc tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐXXST-KDTM ngày 19/8/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/QDST-KDTM ngày 05/9/2022 và Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 01/2022/QĐST-KDTM ngày 23/9/2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: HTX Vận tải Thương mại và Du lịch H Đại diện theo pháp luật: Bà Bùi Thị Thu Tr - Chủ nhiệm HTX Vận tải Thương mại và Du lịch H.
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lê Mạnh H. Địa chỉ: Số nhà 31, đường N, tổ 16, phường M, thành phố H, tỉnh Hà Giang (có mặt).
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Đình N. Địa chỉ: Thôn H, xã Đ, huyện V, tỉnh Hà Giang (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, đại diện theo pháp luật của nguyên đơn bà Bùi Thị Thu Tr trình bày: Ngày 16/8/2018, ông Nguyễn Đình N có nhu cầu tham gia hoạt động vào lĩnh vực vận tải hành khách xe taxi và có đơn tự nguyện xin gia Hợp tác xã vận tải thương mại và du lịch H (viết tắt là HTX VTTM và DL H). Sau khi nhận được đơn xin gia nhập HTX và xét các điều kiện của ông N đủ điều kiện để tham gia hoạt động HTX.
Đồng thời ông N cũng đề nghị xin góp vốn kinh doanh, dịch vụ taxi tại HTX VTTM và DL H. Hai bên đã thống nhất tiến hành làm thủ tục hợp đồng dịch vụ giữa thành viên và HTX VTTM và DL H. Tại bản hợp đồng dịch vụ số 62/HĐDV ngày 16/8/2018 đã nêu rõ quyền và nghĩa vụ của các bên, đặc điểm tài sản và thời gian tham gia góp vốn. Ông N đã tự nguyện góp vốn bằng tài sản là 01 chiếc ô-tô nhãn hiệu Hyundai i10, màu trắng, BKS 23A-053.xx mang tên Nguyễn Đình N, xe sản xuất năm 2018 với số khung RLUG6S1DAJN021234 và số máy là G4LAJM921517.
Thời gian góp vốn là 05 năm kể từ ngày 16/8/2018, ông N phải có trách nhiệm nộp đủ các khoản phí, hóa đơn đầy đủ đúng thời gian quy định mỗi tháng nộp số tiền là 1.200.000đ (Một triệu hai trăm nghìn đồng) tiền lệnh theo tháng để HTX phục vụ cho việc chi phí điều hành và 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) tiền quỹ chung để thăm hỏi cha mẹ của các thành viên HTX khi ốm đau.
Ông N đã cam kết thực hiện theo Hợp đồng dịch vụ hoạt động 05 năm trở lên, nếu dưới 05 năm thành viên phá hợp đồng dịch vụ tự ý ra khỏi HTX thì bị xử phạt số tiền là 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) và bị thu hồi toàn bộ thiết bị taxi, trưng thu tiền lệnh theo đúng quy định tại khoản b, Điều 1, Mục 2 đã ghi trong nội dung hợp đồng. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động dịch vụ taxi, ông N đã tự ý đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không có lý do chính đáng, đã có những hành vi vi phạm nghĩa vụ thỏa thuận của hợp đồng là tự ý phá hợp đồng, cố ý không nộp tiền lệnh (bộ đàm) từ ngày 13/8/2021 đến nay. Đồng thời có hành vi cố ý thực hiện trái với quy định của pháp luật và điệu lệ của HTX, không thực hiện đúng quyền hạn và nghĩa vụ của mình theo bản hợp đồng dịch vụ đã ký.
HTX đã thông báo và liên lạc cho ông N để yêu cầu ông N đến để giải quyết vụ việc nhưng ông N vẫn cố tình không thực hiện.
Tại phiên tòa hôm nay đại diện theo ủy quyền của HTX VTTM và DL H ông Lê Mạnh H thay đổi yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án nhân dân thành phố H yêu cầu ông Nguyễn Đình N phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho HTX gồm: tiền phạt vi phạm hợp đồng là 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) và thấy rằng điều kiện của ông N cũng gặp khó khăn do vậy HTX chỉ yêu cầu ông N thanh toán tiền lệnh theo tháng từ thời điểm vi phạm Hợp đồng tháng 8/2021 đến tháng 8/2022 là 13 tháng x 1.200.000đ = 15.600.000đ (Mười lăm triệu sáu trăm nghìn đồng). Tổng số tiền là 45.600.000đ (Bốn mươi lăm triệu sáu trăm nghìn đồng) và trả lại toàn bộ thiết bị taxi gồm: phù hiệu, đàm tay, đàm xe, đồng hồ tính tiền. Không yêu cầu ông N thanh toán các khoản phí, tiền lệnh theo tháng từ tháng 9/2022 đến hết hợp đồng theo như yêu cầu khởi kiện ban đầu.
* Bị đơn ông Nguyễn Đình N tại bản tự khai ngày 05/7/2022 trình bày xác nhận có tham gia vào hoạt động vận tải của HTX VTTM và DL H từ ngày 16/8/2018, đến tháng 8/2021 vì lý do HTX không bảo đảm công việc cho ông và vì chuyển công việc khác xe không chạy nên đã ngắt thiết bị trên xe, trong bản tự khai ông N trình bày có làm đơn xin ra khỏi HTX nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ thể hiện ông N xin ra khỏi HTX và được HTX chấp nhận, trong bản tự khai ông không nhất trí với yêu cầu khởi kiện của HTX VTTM và DL H. Sau đó qua nhiều lần triệu tập ông N đều vắng mặt và không có lý do, nên không đưa ra được quan điểm giải quyết việc tranh chấp.
Tòa án nhân dân thành phố H đã tạo điều kiện về thời gian cho các bên đương sự thỏa thuận nhưng hiện nay vẫn không thỏa thuận được. Qua các lần thông báo phiên hòa giải bị đơn Nguyễn Đình N vắng mặt, cố ý trốn tránh trách nhiệm, không hợp tác trong việc giải quyết vụ án.
Quan điểm của HTX VTTM và DL H đề nghị Tòa án ra quyết định xét xử buộc ông Nguyễn Đình N có trách nhiệm bồi thường số tiền, hoàn trả thiết bị taxi cho HTX như đã nêu ở trên.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của đương sự nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại Điều 70, Điều 71 BLTTDS. Bị đơn ông Nguyễn Đình N không thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tung quy định tại Điều 70, 72 BLTTDS. Quá trình giải quyết vụ án ông N vắng mặt không có lý do tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, vắng mặt tại phiên tòa mặc dù được Tòa án tống đạt thông báo và niêm yết hợp lệ, vi phạm khoản 15, 16 Điều 70 BLTTDS.
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, điểm g khoản 1 Điều 40, Điều 144, Điều 147 BLTTDS; Điều 285, Điều 401, 418, 513, 515, khoản 2 Điều 516 Bộ luật dân sự 2015; Điều78, 79, 80, 81, 82 Luật kinh mại năm 2005; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí tòa án.
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của HTX VTTM và DL H.
- Buộc ông Nguyễn Đình N phải trả cho HTX VTTM và DL H số tiền lệnh tính tháng 8/2021 đến tháng 8/2022 là 13 tháng x 1.200.000đ = 15.600.000đ (Mười lăm triệu sáu trăm nghìn đồng) và phải chịu tiền phạt vi phạm Hợp đồng là 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng). Tổng số tiền ông N phải chịu là 45.600.000đ (Bốn mươi lăm triệu sáu trăm nghìn đồng). Trả lại toàn bộ thiết bị taxi, bao gồm:
phù hiệu, đàm xe, đàm tay, đồng hồ tính tiền cho HTX VTTM và DL H.
- Về án phí: ông Nguyễn Đình N phải chịu án phí KDTM sơ thẩm là 3.000.000đ (ba triệu đồng).
- Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí 3.000.000đ cho HTX VTTM và DL H(do Bùi Thị Thu Tr nộp) theo biên lai thu số 0000731 ngày 20/6/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Hà Giang.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn có đơn khởi kiện bị đơn phải thanh toán trả tiền số tiền tự chấm dứt hợp đồng theo hợp đồng dịch vụ số 62/HDDV-HTX ngày 16/8/2018 mà hai bên đã ký kết; nguyên đơn HTX VTTM và DL H có trụ sở tại tổ 10, phường M, thành phố H, tỉnh Hà Giang, hợp đồng dịch vụ được thực hiện ký kết tại trụ sở HTX. Theo quy định tại khoản 1 Điều 30, Điều 35, Điều 39; điểm g khoản 1 Điều 40 BLTTDS vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hà Giang.
[2] Về xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án: Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn khởi kiện bị đơn về yêu cầu thu hồi thiết bị xe và xử phạt 30.000.000đ cộng với các khoản phí và tiền lệnh 28.800.000đ, tổng là 58.800.000đ cho HTX VTTM và DL H theo hợp đồng hai bên đã đã ký kết đây là vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp Hợp đồng cung ứng dịch vụ.
[3] Về sự có mặt của đương sự: Quá trình điều tra, thu thập, xác minh, tống đạt văn bản tố tụng bị đơn ông Nguyễn Đình N ngoài bản tự khai ngày 05/7/2022 thì không có mặt tại Tòa án để giải quyết và không đưa ra được ý kiến, quan điểm của mình, không giao nộp các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình. Bị đơn đã vi phạm tại Điều 70, 72 của BLTTDS do vậy việc vắng mặt của ông N 2 lần tại phiên tòa nên không ảnh hưởng đến việc xét xử. Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.
[4]. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm yêu cầu tiền phạt vi phạm Hợp đồng là 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng), rút một phần yêu cầu thanh toán tiền đàm, lệnh, chỉ yêu cầu thanh toán tiền đàm, lệnh kể từ tháng 8/2021 đến tháng 8/2022 là 13 tháng x 1.200.000đ = 15.600.000đ (Mười lăm triệu sáu trăm nghìn đồng), hoàn trả các thiết bị phù hiệu, đàm xe, đàm tay, đồng hồ tính tiền trang bị cho xe taxi mà HTX VTTM và DL H đã cung cấp.
[5] Về yêu cầu khởi kiện của HTX VTTM và DL H buộc bị đơn ông Nguyễn Đình N có trách nhiệm thanh toán số tiền tự chấm dứt hợp đồng của hai khoản là: 45.600.000đ là có căn cứ vì việc tự chấm dứt hợp đồng trước thời hạn phạt 30.000.000đ và số tiền lệnh của 13 tháng là 15.600.000đ cho HTX VTTM và DL H; do vậy, HĐXX cần xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện buộc bị đơn ông N phải thanh toán trả tiền lệnh của 13 tháng là 15.600.000đ và tiền phạt tự chấm dứt hợp đồng trước thời hạn là 30.000.000đ.
[6] Đối với việc ông N trình bày có làm đơn xin ra khỏi HTX VTTM và DL H do HTX không bảo đảm về công việc của các thành viên trong HTX, tuy nhiên ông N không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc xin ra khỏi HTX và được HTX chấp nhận. Do vậy có đủ căn cứ để xác định ông N tự chấp dứt hợp đồng mà chưa có sự đồng ý của HTX. Việc tự ý chấm dứt hợp đồng đã gây khó khăn, thiệt hại cho HTX VTTM và DL H do đó ông N phải có trách nhiệm bồi thường số tiền 30.000.000đ tiền phạt và 15.600.000đ tiền lệnh cùng với việc trả lại các thiệt bị taxi gồm: phù hiệu, đàm xe, đàm tay, đồng hồ tính tiền cho HTX VTTM và DL H là có căn cứ và đúng pháp luật.
[7] Căn cứ vào nhận định trên chấp nhận yêu khởi kiện của HTX VTTM và DL H, buộc ông Nguyễn Đình N phải trả số tiền phạt do vi phạm hợp đồng là 30.000.000đ và tiền lệnh của 13 tháng là 15.600.000đ, tổng là 45.600.000đ cho HTX VTTM và DL H và hoàn trả thiết bị trang bị cho xe hoạt động taxi.
[8] Về tư cách tham gia tố tụng: Xét thấy ông Lê Mạnh H quá trình giải quyết vụ án xác định là đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, đồng thời là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo khoản 4 Điều 68 BLTTDS, tuy nhiên việc giải quyết vụ án không liên quan đến quyền và nghĩa vụ của ông Lê Mạnh H. Ông H biết các tình tiết liên quan đến vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử xác định ông H là người làm chứng theo Điều 77 BLTTDS.
[9] Về án phí: Ông Nguyễn Đình N phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm có giá ngạch số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng) theo quy định tại Điều 147 BLTTDS; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 285, 401, 418, 513, 515, 516 Bộ luật dân sự; Điều 78, 79, 80, 81, 82 Luật thương mại năm 2005; Điều 30, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, điểm g khoản 1 Điều 40, khoản 3 Điều 144, khoản 1 Điều 147, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của HTX Vận tải Thương mại và Du lịch H về yêu cầu buộc ông Nguyễn Đình N phải thanh toán trả số tiền tự chấm dứt hợp đồng cung ứng dịch vụ theo đúng như hợp đồng đã ký kết.
Tuyên xử: Buộc ông Nguyễn Đình N; địa chỉ: thôn H, xã Đ, huyện V, tỉnh Hà Giang phải thanh toán trả số tiền do vi phạm tự chấm hợp đồng trước thời hạn là 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) và tiền lệnh của 13 tháng là 15.600.000đ (Mười lăm triệu sáu trăm nghìn đồng), tổng số tiền anh N phải trả cho HTX VTTM và DL H là 45.600.000đ (Bốn mươi lăm triệu sáu trăm nghìn đồng). Ông N phải trả lại thiết bị được trang bị cho hoạt động xe taxi gồm: phù hiệu, đàm xe, đàm tay, đồng hồ tính tiền cho HTX VTTM và DL H.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu số tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Về án phí: Bị đơn ông Nguyễn Đình N phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 3.000.000đ (Ba triệu đồng) theo luật định.
Trả lại cho HTX VTTM và DL H số tiền 3.000.000đ tạm ứng án phí đã nộp (do Bùi Thị Thu Tr nộp) tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H theo biên lai số 0000731 ngày 20/6/2022.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải thi hánh án dân sự có quyền thoả thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định tại các điều 6,7,7a và 9 Luật Thi hành án dân sự: Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm. Báo cho nguyên đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt biết có kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự./.
Bản án về tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ số 03/2022/KDTM-ST
Số hiệu: | 03/2022/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hà Giang - Hà Giang |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 30/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về