Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 818/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 818/2023/DS-PT NGÀY 07/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Vào các ngày 01, 07 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 199/2023/TLPT-DS ngày 25 tháng 5 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2023/DS-ST ngày 05 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2402/2023/QĐ-PT ngày 02 tháng 6 năm 2023 giữa:

- Nguyên đơn:

1. Bà Huỳnh Thị Hồng S, sinh năm 1959. (Có mặt)

2. Bà Nguyễn Huỳnh Bảo T, sinh năm 1992.

3. Bà Nguyễn Huỳnh Bảo N, sinh năm 1998.

Cùng địa chỉ: số D đường B, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện ủy quyền của bà S, bà T và bà N:

Trương Nguyễn Ngọc D, sinh năm 1994. (Có mặt) Địa chỉ: P, số C đường Đ, Phường D, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Theo Hợp đồng ủy quyền số công chứng 11887 ngày 18/12/2020 tại Văn phòng C1, Thành phố Hồ Chí Minh).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Bùi Trung L - Công ty TNHH L3 thuộc đoàn luật sư Thành phố H.

- Bị đơn:

1. Ông Ngô Gia P, sinh năm 1985.

Địa chỉ: Số F đường V, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của ông P:

Ông Trần Văn Q, sinh năm 1989. (Có mặt) Địa chỉ: E Khu phố A, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ liên lạc: 22 Khu phố A, phường H, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Theo Giấy ủy quyền số công chứng 00318 ngày 17/01/2022 tại Văn phòng C2).

2. Ông Vũ Minh T1, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Số I B, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của ông T1:

Ông Trần Quốc L1, sinh năm 1989. (xin vắng mặt) Địa chỉ: Số I B, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Theo Giấy ủy quyền số công chứng 001097 ngày 22/3/2021 tại Văn phòng C3, Thành phố Hồ Chí Minh).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Khúc Hồng H, sinh năm 1986.

Địa chỉ: Số I B, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Quốc L1, sinh năm 1989. (xin vắng mặt) Địa chỉ: Số I B, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Theo Giấy ủy quyền số công chứng 001096 ngày 22/3/2021 tại Văn phòng C3, Thành phố Hồ Chí Minh).

2. Bà Quách Lệ H1, sinh năm 1962.

Địa chỉ: Số F C A, Phường I, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền:

Vũ Thị Anh T2, sinh năm 1973. (xin vắng mặt) Địa chỉ: Số A Quốc lộ A, Khu phố C, phường B, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Theo Giấy ủy quyền số công chứng 002665 ngày 18/3/2021 lập tại Văn phòng C4).

3. Ông Đặng Hoàng V, sinh năm 1985.

Địa chỉ: ấp Đ, xã Đ, huyện T, Thành phố Cần Thơ.

Người đại diện theo ủy quyền:

Ông Phan Bá L2, sinh năm 1988. (Có mặt) Địa chỉ: Số A T, khu phố E, thị trấn T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Theo Giấy ủy quyền số công chứng 000044 ngày 04/01/2022 lập tại Văn phòng công chứng Nguyễn Thị Ngọc B).

4. Văn phòng công chứng Nguyễn Thị T3 (trước đây là Văn phòng công chứng Nguvễn Hữu H2).

Người đại diện hợp pháp: Ông Lê Văn H3. (xin vắng mặt) Địa chỉ: D ấp D, xã V, huyện B. Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Văn phòng công chứng Huỳnh Thị Ngọc Y.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh M. (xin vắng mặt) Địa chỉ: Số E đường N, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Huỳnh Thị Hồng S, bà Nguyễn Huỳnh Bảo N và bà Nguyễn Huỳnh Bảo T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Huỳnh Thị Hồng S, bà Nguyễn Huỳnh Bảo T, bà Nguyễn Huỳnh Bảo N cùng người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Trương Nguyễn Ngọc D và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Luật sư Bùi Trung L trình bày:

Bà Huỳnh Thị Hồng S là người có quyền sử dụng đất tại các thửa đất số 723, 724, tờ bản đồ số 6, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận số CM 504553, số vào sổ cấp giấy CS 07470 do Sở Tài Nguyên và Môi trường Thành phố H cấp ngày 25/01/2019, cập nhật thay đổi ngày 21/3/2019.

Bà Nguyễn Huỳnh Bảo T (con của bà S) là người có quyền sử dụng đất tại thửa đất số 721 tờ bản đồ số 6, xã V, huyện B, TP . theo Giấy chứng nhận số CM 504555, số vào sổ cấp giấy CS 07469 do Sở Tài Nguyên và Môi trường Thành phố H cấp ngày 25/01/2019.

Bà Nguyễn Huỳnh Bảo N (con của bà S) là người có quyền sử dụng đất tại thửa đất số 722 tờ bản đồ số 6, xã V, huyện B, TP . theo Giấy chứng nhận số CM 504554, số vào sổ cấp giấy CS 07468 do Sở Tài Nguyên và Môi trường Thành phố H cấp ngày 25/01/2019.

Ngày 31/7/2019, bà S vay của ông Vũ Minh T1 số tiền 451.200.000 đồng (Bốn trăm năm mươi mốt triệu hai trăm nghìn đồng). Để đảm bảo khoản nợ, bà S và hai con đã lập các hợp đồng giả cách số 011067, số A, số 011071, quyển số 02/2019 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 31/7/2019 tại Văn phòng C5, chuyển nhượng các quyền sử dụng đất nêu trên cho ông T1 với tổng giá trị chuyển nhượng ghi trên hợp đồng là 240.000.000 đồng (Hai trăm bốn mươi triệu đồng), bàn giao các giấy chứng nhận cho ông T1 và nhờ ông T1 đứng tên dùm trên giấy chứng nhận để thuận tiện cho việc vay Ngân hàng nhằm mục đích trả nợ cho ông T1. Ông T1 đã đăng ký biến động sang tên các thửa đất vào ngày 21/8/2019.

Sau đó việc vay Ngân hàng không thực hiện được. Ngày 24/8/2019, để có tiền trả nợ gốc và lãi 517.800.000 đồng (Năm trăm mười bảy triệu tám trăm nghìn đồng) cho ông T1, bà S đã vay của bà Quách Lệ H1 số tiền 4.000.000.000 đồng (Bốn tỷ đồng). Bà S đề nghị ông T1 và vợ ông T1 là bà Khúc Hồng H lập các hợp đồng giả cách số 012361, số A, số 012363, quyền số 02/2019 TP/CC-SCC/HĐND ngày 24/8/2019 tại Văn phòng C5, chuyển nhượng các quyền sử dụng đất nêu trên cho bà Quách Lệ H1 với tổng giá trị chuyển nhượng ghi trên hợp đồng là 510.000.000 đồng (Năm trăm mười triệu đồng).

Để có tiền trả cho bà Quách Lệ H1, bà S tiếp tục vay tiền của ông Ngô Gia P. Vào các ngày 02/6/2020, ngày 05/6/2020, bà S và ông P lập Văn bản mượn tiền có thể chấp tài sản có nội dung: “...ông P cho bà S mượn tổng số tiền là 10.600.000.000 đồng, bà S đảm bảo khoản vay của ông P bằng cách ký chuyển nhượng cho ông P các thửa đất số 721, 722, 723, 724”.

Để có thể ký các hợp đồng chuyển nhượng đất cho ông P để đảm bảo khoản vay, bà S đã đề nghị vợ chồng ông T1 ký hủy các hợp đồng chuyển nhượng giữa vợ chồng ông T1 với bà Quách Lệ HI. Đồng thời, yêu cầu vợ chồng ông T1 lập giấy ủy quyền cho bà S được toàn quyền mua bán, chuyển nhượng, thế chấp các thửa đất số 721, 722, 723, 724 theo Hợp đồng ủy quyền số 006239, 006240, 006241, quyển số 01/2020 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 02/6/2020 lập tại Văn phòng C5. Do phải kỷ gấp các hợp đồng chuyển nhượng đất cho ông P để đảm bảo khoản vay nên bà S không yêu cầu vợ chồng ông T1 ký hủy các hợp đồng chuyển nhượng giữa vợ chồng ông T1 và bà S mà chuyển sang hình thức ký hợp đồng ủy quyền mua bán. Vì nếu chờ làm thủ tục cập nhật sang tên lại cho bà S và hai con trên các giấy chứng nhận rồi mới ký hợp đồng cho ông P thì sẽ mất thời gian.

Căn cứ trên các giấy ủy quyền của ông T1, bà S đã lập các hợp đồng giả cách số 01680, số 01681, số 01682 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 02/6/2020 tại Văn phòng C2 chuyển nhượng các quyền sử dụng đất tại thửa đất số 721, 722, 723, 724 cho ông P với tổng giá trị chuyển nhượng ghi trên hợp đồng là 850.000.000 đồng (T4 trăm năm mươi triệu đồng), bàn giao các giấy chứng nhận cho ông P, theo đúng như thỏa thuận.

Thực tế bà S chỉ nhận của ông P số tiền 9.700.000.000 đồng vì đã phải trừ trước 03 tháng tiền lãi là 900.000.000 đồng. Sau đó, bà S đã nhiều lần trả tiền vay cho ông P theo các giấy xác nhận sau:

- Hoàn trả 400.000.000 đồng theo giấy xác nhận ngày 7/9/2020;

- Hoàn trả 200.000.000 đồng theo giấy xác nhận ngày 22/9/2020;

- Hoàn trả 250.000.000 đồng theo phiếu thu ngày 10/10/2020;

- Hoàn trả 60.000.000 đồng theo chứng từ giao dịch ngày 13/10/2020.

Như vậy, tính tới thời điểm hiện tại, bà S đã hoàn trả cho ông P số tiền 1.810.000.000 đồng (Một tỷ tám trăm mười triệu đồng).

Tuy nhiên, sau đó bà S không liên hệ được với ông P để trả hết số nợ vay còn lại để chuộc các giấy chứng nhận nêu trên. Bà S được biết ông P đã đăng ký biến động sang tên ông P các thửa đất nêu trên vào ngày 23/6/2020 và đã chuyển nhượng các thửa đất cho ông Đặng Hoàng V vào ngày 26/11/2020.

Việc ký kết các hợp đồng chuyển nhượng các quyền sử dụng đất nêu trên là giả tạo, nhằm che dấu hợp đồng vay. Vì vậy, bà Huỳnh Thị Hồng S, bà Nguyễn Huỳnh Bảo T, bà Nguyễn Huỳnh Bảo N khởi kiện đề nghị Tòa án xem xét, chấp thuận các yêu cầu khởi kiện sau đây:

1. Tuyên hợp đồng chuyển nhượng số 011067, số A, số 011071, quyển số 02/2019 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 31/7/2019 tại Văn phòng C5 giữa bà Huỳnh Thị Hồng S, bà Nguyễn Huỳnh Bảo T, bà Nguyễn Huỳnh Bảo N với ông Vũ Minh T1 là vô hiệu do giả tạo.

2. Tuyên hủy đăng ký biến động, sang tên trên các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Vũ Minh T1 ngày 21/8/2019.

3. Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 01680, 01681, 01682 lập tại Văn phòng C2 ngày 02/6/2020 giữa bà Huỳnh Thị Hồng S và ông Ngô Gia P vô hiệu do giả tạo.

4. Tuyên hủy đăng ký biến động, sang tên trên các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Ngô Gia P ngày 23/6/2020.

5. Tuyên hủy giao dịch mua bán, chuyển nhượng giữa ông Đặng Hoàng V và ông Ngô Gia P.

6. Yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 721, 722, 723, 724, tờ bản đồ số 6, xã V, huyện B cho nguyên đơn.

Giao dịch vay tiền giữa bà S và ông T1 cũng như giữa bà S và bà Quách Lệ H1 đã thực hiện xong, bà S đã thanh toán hết số tiền nợ cho ông T1 và bà Quách Lệ H1.

Bị đơn ông Ngô Gia P có ông Trần Văn Q là người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ngày 02/06/2020, ông Ngô Gia P và vợ chồng ông Vũ Minh T1, bà Khúc Hồng H có bà Huỳnh Thị Hồng S làm đại diện theo ủy quyền ký kết các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất:

1. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 01680, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐ-GD tại Văn phòng C2 đối với quyền sử dụng đất thuộc thửa 721, tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng đất: đất trồng cây lâu năm, diện tích đất 1.500m2, tọa lạc tại xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 504555, số vào sổ cấp GCN: CS 07469 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp ngày 25/01/2019, cập nhật biến động ngày 21/08/2019. Giá chuyển nhượng là 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng).

2. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 01681, quyển số 01 TP/CCSCC/HĐ-GD tại Văn phòng C2 đối với quyền sử dụng đất thuộc thửa 722, tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng đất: đất trồng cây lâu năm, diện tích đất 1.064m2, tọa lạc tại xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 504554, số vào sổ cấp GCN: CS 07468 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp ngày 25/01/2019, cập nhật biến động ngày 21/08/2019. Giá chuyển nhượng là 250.000.000 đồng (Hai trăm năm mươi triệu đồng).

3. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 01682, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐ-GD tại Văn phòng Công chứng Nguyễn Hữu H2 đối với quyền sử dụng đất thuộc thửa 723, 724, tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng đất: đất trồng cây lâu năm, diện tích đất 1.157m2, tọa lạc tại xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 504553, số vào sổ cấp GCN: CS 07470 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H ngày 25/01/2019, cập nhật biến động ngày 21/03/2019, ngày 21/08/2019. Giá chuyển nhượng là 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng).

Sau khi nhận chuyển nhượng các phần đất trên thì ông P là người trực tiếp quản lý, sử dụng các phần đất này.

Đến ngày 26/11/2020, ông P cùng vợ là bà Nguyễn Thụy Biên T5 chuyển nhượng lại các phần đất nêu trên cho ông Đặng Hoàng V theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 04000, quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C2. Giá trị chuyển nhượng là 1.510.000.000 đồng (Một tỷ năm trăm mười triệu đồng). Hiện nay, ông V là người trực tiếp quản lý, sử dụng các phần đất này.

Đối với trình bày của nguyên đơn về việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng các quyền sử dụng đất nêu trên giữa nguyên đơn và ông P là giả tạo nhằm che dấu hợp đồng vay là không đúng sự thật. Giữa ông P và bà S không có thỏa thuận vay mượn tiền nào và ông P cũng không có cho bà S mượn số tiền là 10.600.000.000 đồng (Mười tỷ sáu trăm triệu đồng) như lời trình bày của bà S. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông P và bà S là hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật chứ không có giả tạo nhằm che dấu hợp đồng vay. Sau khi nhận chuyển nhượng từ bà S thì ông P đã tiến hành thủ tục đăng bộ sang tên quyền sử dụng đất theo đúng quy định pháp luật và giao dịch mua bán, chuyển nhượng giữa ông P và ông V cũng tuân thủ theo quy định. Vì vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ông Trần Quốc L1 là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Vũ Minh T1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Khúc Hồng H trình bày:

Thống nhất với toàn bộ lời trình bày của phía nguyên đơn. Ông T1 đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Huỳnh Thị Hồng S, bà Nguyễn Huỳnh Bảo T, bà Nguyễn Huỳnh Bảo N với ông Vũ Minh T1, bà Khúc Hồng H.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Quách Lệ H1 có người đại diện theo ủy quyền là bà Vũ Thị Anh T2 trình bày:

Vào ngày 22/08/2019, bà Quách Lệ H1 có cho bà Huỳnh Thị Hồng S mượn số tiền là 500.000.000 (Năm trăm triệu) đồng theo hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại địa chỉ thửa đất: 723 - 724, tờ bản đồ số 6, xã V, huyện B. Sau đó đến ngày 24/08/2019, bà H1 có cho bà Huỳnh Thị Hồng S mượn số tiền là 3.483.000.000 đồng (Ba tỷ bốn trăm tám mươi ba triệu) đồng cùng ông Vũ Minh T1 nhận số tiền của bà H1 là 517.800.000 đồng (Năm trăm mười bảy triệu tám trăm nghìn) đồng. Như vậy bà S cùng ông T1 đã nhận tiền của bà H1 là:

- 500.000.000 đồng (bà S nhận ngày 22/08/2019);

- 3.483.000.000 đồng (bà S nhận ngày 24/08/2019);

- 517.800.000 đồng (ông T1 nhận ngày 24/08/2019).

Tổng số tiền mà bà S và ông T1 đã nhận của bà H1 là 4.500.800.000 (Bốn tỷ năm trăm tám trăm ngàn) đồng. Đến ngày 02/06/2020 bà S đã trả lại cho bà H1 số tiền là 4.500.000.000 (Bốn tỷ năm trăm triệu) đồng. Đồng thời bà H1 đã trả lại bản chính 03 cuốn sổ đỏ của các thửa đất ở xã V cho bà S. Hiện tại bà H1 không liên quan gì đến vụ kiện mà bà S đang khởi kiện tại TAND huyện Bình Chánh. Do vậy bà H1 đề nghị được không tham gia trong tất cả phiên hòa giải, xét xử vụ kiện trên.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đặng Hoàng V có người đại diện theo ủy quyền ông Phan Bá L2 trình bày:

Ngày 26/11/2020, ông Ngô Gia P, bà Nguyễn Thụy Biên T5 và ông Đặng Hoàng V có ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 04000, quyển số 02TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C2 đối với các quyền sử dụng đất sau:

1. Quyền sử dụng đất thuộc thửa 721, tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng đất: đất trồng cây lâu năm, diện tích đất 1.501m2, tọa lạc tại xã V, huyện B, TP . Hồ Chí Minh. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 504555, số vào sổ cấp GCN: CS 07469 do Sở T cấp ngày 25/01/2019, cập nhật biến động ngày 21/08/2019, ngày 23/6/2020.

2. Quyền sử dụng đất thuộc thửa 722, tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng đất: đất trồng cây lâu năm, diện tích đất 1.064m2, tọa lạc tại xã V, huyện B, TP . Hồ Chí Minh. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 504554, số vào số cấp GCN: CS 07468 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp ngày 25/01/2019, cập nhật biến động ngay 21/08/2019, ngày 23/06/2020.

3. Quyền sử dụng đất thuộc thửa 723, 724, tờ bản đồ số 06, mục đích sử dụng đất: đất trồng cây lâu năm, diện tích đất 1.157m2, tọa lạc tại xã V, huyện B, TP . Hồ Chí Minh. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 504553, số vào sổ cấp GCN: CS 07470 do Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp ngày 25/01/2019, cập nhật biến động ngày 21/03/2019, ngày 21/08/2019, ngày 23/06/2020.

Giá trị chuyển nhượng các quyền sử dụng đất nêu trên là 1.510.000.000 đồng (Một tỷ năm trăm mười triệu đồng). Sau khi nhận chuyển nhượng các phần đất trên thì ông V là người trực tiếp quản lý, sử dụng các phân đất này.

Đối với trình bày của nguyên đơn về việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng các quyền sử dụng đất nêu trên giữa nguyên đơn và ông Ngô Gia P là giả tạo nhằm che dấu hợp đồng vay thì ông V hoàn toàn không hay biết gì và tại thời điểm ông V nhận chuyển nhượng các phần đất trên thì các phần đất này thuộc quyền sử dụng của ông Ngô Gia P theo quy định của pháp luật.

Xét thấy, ông V là người mua ngay tình trong giao dịch dân sự nêu trên. Ông V đã thực hiện thủ tục sang tên các quyền sử dụng đất trên là theo đúng trình tự pháp luật quy định, ông V cũng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các phần đất này. Vì vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ông Vũ n tồi không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2023/DS-ST ngày 05 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã:

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, 186, 187, điểm a, khoản 1 Điều 192, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Áp dụng Điều 124, Khoản 2 Điều 133 Điều 692, Điều 697, Điều 701 Bộ luật dân sự năm 2015;

Áp dụng khoản 3 Điều 105; khoản 2 Điều 203 Luật đất đai 2013;

Áp dụng Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Tòa án nhân dân Tối cao;

Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị Hồng S, bà Nguyễn Huỳnh Bảo T, bà Nguyễn Huỳnh Bảo N về việc yêu tuyên các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 011067, số 011069, số 011071, quyền số 02/2019 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 31/7/2019 tại Văn phòng C5 giữa bà Huỳnh Thị Hồng S, bà Nguyễn Huỳnh Bảo T, bà Nguyễn Huỳnh Bảo N với ông Vũ Minh T1 chuyển nhượng các thửa đất 721, 722, 723, 724, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh là vô hiệu.

2/ Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu tuyên các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 01680, 01681, 01682 lập tại Văn phòng C2 ngày 02/6/2020 giữa ông Nguyễn Minh T6 và bà Khúc Hồng H với ông Ngô Gia P.

3/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 04000 lập ngày 26/11/2020 tại Văn phòng C2 giữa ông Ngô Gia P, bà Nguyễn Thụy Biên T5 và ông Đặng Hoàng V là vô hiệu.

4/ Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu tuyên hủy đăng ký biến động, sang tên cho ông Vũ Minh T1 ngày 21/8/2019 và hủy đăng ký biến động, sang tên cho ông Ngô Gia P ngày 23/6/2020.

5/ Chi phí tố tụng: Chi phí xét xét, thẩm định tại chỗ và đo vẽ là 37.151.516 đồng và chi phí thẩm định giá 20.000.000 đồng nguyên đơn tự nguyện chịu và bà S đã nộp đủ.

6/ Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Huỳnh Thị Hồng S được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm. Ông Vũ Minh T1 và bà Khúc Hồng H chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm; Bà Nguyễn Huỳnh Bảo T, bà Nguyễn Huỳnh Bảo N mỗi người chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền mà bà S, bà N, bà T đã nộp 1.500.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: AA/2019/0080769 ngày 30/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh. Bà S, bà N, bà T được hoàn lại số tiền 900.000 đồng (Chín trăm nghìn đồng).

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định pháp luật.

Sau đó, nguyên đơn bà Huỳnh Thị Hồng S, bà Nguyễn Huỳnh Bảo N và bà Nguyễn Huỳnh Bảo T kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bà Trương Nguyễn Ngọc D là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Huỳnh Thị Hồng S, bà Nguyễn Huỳnh Bảo N, bà Nguyễn Huỳnh Bảo T cùng Luật sư Bùi Trung L là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Đề nghị cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm. Nguyên đơn không rút kháng cáo đối với quyết định của bản án sơ thẩm đã tuyên các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Huỳnh Thị Hồng S, bà Nguyễn Huỳnh Bảo T, bà Nguyễn Huỳnh Bảo N với ông Vũ Minh T1 là vô hiệu; cũng như không rút kháng cáo đối với quyết định của án sơ thẩm về việc không tuyên hủy đăng ký biến động, sang tên cho ông Vũ Minh T1 ngày 21/8/2019. Các hợp đồng chuyển nhượng giữa nguyên đơn và ông T1 là vô hiệu thì hậu quả của hợp đồng vô hiệu phải được giải quyết, nguyên đơn phải được công nhận lại quyền sử dụng đất đối với các thửa đất. Việc nguyên đơn vay tiền của ông P là có thật, ông P cũng thừa nhận có ký tên trên giấy vay tiền với bà S. Giá trị của các thửa đất theo chứng thư thẩm định giá là gần 20.000.000.0000 đồng nên giá mua bán trên hợp đồng giữ ông P và bà S cũng như giữa ông P và ông V là giả tạo. Nguyên đơn có quyền khởi kiện đề yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Cấp sơ thẩm đình chỉ với lý do bà S không có quyền khởi kiện là không đúng quy định pháp luật.

Ông Trần Văn Q là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Ngô Gia P trình bày:

Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm. Vào ngày 28/5/2020 ông P và bà S có ký giấy đặt cọc với nội dung bà S đồng ý bán các thửa đất cho ông P với giá 8.000.000.000 đồng, ông P đặt cọc 500.000.000 đồng. Sau đó đến ngày 05/6/2020 bà S yêu cầu tăng giá mua bán lên 10.600.000.000 đồng, ông P cũng đồng ý. Do bà S có xin ông P được mua lại các phần đất trong thời hạn 03 tháng nên ông P mới đồng ý ký vào các giấy mượn tiền có thể chấp tài sản ngày 02, 05/6/2020. Ông P xác định ông P mua đất của bà S, không phải cho bà S vay tiền.

Ông Phan Bá L2 là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đặng Hoàng V trình bày:

Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm. Ông V là người thứ ba ngay tình, ông V không hay biết tranh chấp giữa ông P và bà S. Đối với giá chuyển nhượng các thửa đất giữa ông V và ông P thì ông L2 không được ông V cung cấp thông tin, theo các hợp đồng công chứng thể hiện thì giá chuyển nhượng là 1.510.000.000 đồng.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm như sau:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, đảm bảo cho các đương sự có các quyền và nghĩa vụ theo quy định; gửi các Quyết định, Thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp, đương sự đầy đủ, đúng thời hạn. Hội đồng xét xử đúng thành phần, phiên tòa diễn ra theo đúng trình tự và quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho cấp sơ thẩm xét xử lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Cấp sơ thẩm xác định các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 31/7/2019 giữa bà Huỳnh Thị Hồng S, bà Nguyễn Huỳnh Bảo N, bà Nguyễn Huỳnh Bảo T với ông Vũ Minh T1 đối với các thửa đất số 721, 722, 723, 724, tọa lạc tại xã V, huyện B là giả tạo, nhằm che dấu giao dịch vay tiền và đứng tên dùm trên giấy chứng nhận. Từ đó, cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên bố các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà S, bà N, bà T với ông T1 là vô hiệu.

Tại Điều 124 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan”.

Đồng thời, theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”.

Như vậy, do giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà S, bà T, bà N và ông T1 vô hiệu do giả tạo, nghĩa là trên thực tế bà S, bà T, bà N không thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông T1, giữa các bên chỉ có giao dịch vay tiền, nên bà S, bà T, bà N vẫn có quyền sử dụng đối với các thửa đất trên.

Hiện nay bà S, bà T, bà N và ông T1 đều xác định giao dịch vay mượn tiền giữa hai bên đã được giải quyết xong. Ông T1 cùng vợ là bà Khúc Hồng H cũng xác định hai ông bà không Phải là chủ sử dụng đối với các thửa đất số 721, 722, 723, 724 mà chủ sử dụng là bà S, bà T, bà N. Sau khi bà S trả nợ cho ông T1, bà H, hai bên không ký hủy bỏ các hợp đồng chuyển nhượng giả tạo mà ông T1, bà H ký hợp đồng ủy quyền cho bà S được toàn quyền mua bán, chuyển nhượng, thế chấp đối với các thửa đất.

[2] Bà S trình bày vào tháng 6/2020 bà đã vay của ông Ngô Gia P tổng số tiền 10.600.000.000 đồng và bà S đã lập hợp đồng giả cách chuyển nhượng các thửa đất cho ông P để đảm bảo khoản vay; tương tự như cách thức đã thực hiện với ông T1. Bà S cung cấp hai văn bản mượn tiền, cụ thể:

- Văn bản mượn tiền có thể chấp tài sản ngày 02/6/2020 với nội dung: “Tại Văn phòng công chứng Nguyễn Hữu H2, bà S mượn số tiền 5.300.000.000 đồng của ông P, số tiền này bà S cam kết sẽ trả lại trong vòng 03 tháng tính từ ngày 02/6/2020, hai bên có thỏa thuận tài sản đảm bảo cho việc mượn tiền này là bà S ký chuyển nhượng 04 thửa đất số 721, 722, 723, 724, tờ bản đồ số 06, xã V, huyện B cho ông P để đảm bảo số tiền mượn trên. Trong thời gian 03 tháng, bà S trả đủ số tiền mượn trên thì ông P sẽ ký chuyển nhượng lại cho bà S hoặc bà S chỉ định bất cứ người nào đứng tên. Nếu trong vòng 03 tháng bà S không trả đủ số tiền mượn thì ông P có quyền định đoạt số tài sản nêu trên. Trong thời gian 03 tháng kể từ ngày 02/6/2020, ông P cam kết không ký chuyển nhượng cho bất cứ ai...”. Văn bản này được ông P, bà S và hai người làm chứng là Huỳnh Thanh Q1, Lê Sơn H4 ký tên, lăn tay.

- Văn bản thỏa thuận và cam kết thực hiện về việc mượn tiền có đảm bảo bằng tài sản ngày 05/6/2020, nội dung: “Theo văn bản mượn tiền có thể chấp được hai bên ký ngày 02/6/2020 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Hữu H2 thể hiện việc đảm bảo khoản tiền mượn, các bên đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại các thửa số 721, 722, 723, 724, tờ bản đồ số 06, xã V, huyện B (có 03 giấy chủ quyền). Nay ông P tiếp tục cho bà S mượn thêm số tiền 5.300.000.000 đồng. Tổng cộng hai lần mượn là 10.600.000.000 đồng. Tiếp tục dùng tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất mà các bên đã ký chuyển nhượng tại Văn phòng công chứng Nguyễn Hữu H2. Các bên cam kết và thực hiện trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày 02-05/6/2020, bà S có trách nhiệm hoàn trả cho ông P toàn bộ số tiền mượn. Sau khi trả tiền xong, ông P có trách nhiệm ký chuyển dịch lại quyền sử dụng đất cho bà S... Hết hạn bà S chua thanh toán số tiền thì được quyền gia hạn thực hiện nhưng không quá 15 ngày. Biên bản này và Văn bản mượn tiền có thể chấp tài sản không tách rời nhau và có giá trị pháp lý thi hành...”. Văn bản được bà S, ông P, ông Lê Sơn H4 ký tên; ông P còn lăn tay xác nhận.

Vào ngày 02/6/2020 bà S với tư cách đại diện theo ủy quyền của ông Vũ Minh T1, bà Khúc Hồng H đã ký các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với các thửa đất số 721, 722, 723, 724 cho ông P.

Tại phiên tòa sơ thẩm, phía ông P thừa nhận đã ký tên, lăn tay trên hai văn bản mượn tiền có thể chấp tài sản ngày 02, 05/6/2020 do bà S cung cấp.

Như vậy, việc bà S vay tiền của ông P và ký các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để đảm bảo khoản vay là có thật và đúng như nội dung hai bên đã thỏa thuận tại Văn bản mượn tiền có thể chấp tài sản ngày 02/6/2020 bằng giấy tay.

Hiện nay, bà S khởi kiện yêu cầu tuyên bố các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký với ông P là vô hiệu do giả tạo. Bà S cho rằng ông P đã vi phạm thỏa thuận trong hai văn bản mượn tiền ngày 02, 05/6/2020, ông P đã tiến hành chuyển nhượng các thửa đất cho ông Đặng Hoàng V trong khi bà S vẫn thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho ông P. Điều này đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà S.

[3] Hội đồng xét xử nhận thấy bà S, bà T, bà N cùng ông T1 đã xác định giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên là giả tạo. Bà S chứng minh được giữa bà và ông P có giao dịch vay mượn tiền và việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ để đảm bảo khoản vay. Hiện nay ông P đã thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người thứ ba nên bà S cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của bà bị xâm phạm. Do đó bà S có quyền khởi kiện để tranh chấp đối với các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông P cũng như với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông P với người thứ ba.

Cấp sơ thẩm một mặt nhận định giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà S và ông T1 vô hiệu do giả tạo; mặt khác lại nhận định bà S không có quyền khởi kiện với ông P khi bà S ký kết các hợp đồng chuyển nhượng cho ông P với tư cách là người đại diện theo ủy quyền của vợ chồng ông T1 - là tự mâu thuẫn với chính lập luận của mình.

Việc cấp sơ thẩm xác định bà S không có quyền khởi kiện, từ đó đình chỉ đối với yêu cầu của bà S về việc đề nghị tuyên vô hiệu các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Minh T6, bà Khúc Hồng H với ông Ngô Gia P là chưa chính xác. Tòa án cần phải xem xét, giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện này của bà S.

[3] Ngoài ra, theo lời trình bày của bà S thì ông Lê Sơn H4, ông Phan Việt H5, bà Cao Thị Kim C, bà Cao Thị Kim N1 là những người đã giao tiền và nhận tiền lãi từ bà S để giao cho ông P. Bà S yêu cầu Tòa án triệu tập các ông bà trên tham gia vụ án với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Chứng cứ mà bà S cung cấp là:

- Một giấy xác nhận ngày 07/9/2020 của ông Lê Sơn H4 có nội dung “nhận của bà S 400.000.000 đồng để gửi cho ông Ngô Gia P” và một giấy xác nhận ngày 22/9/2020 của ông H4 có nội dung “nhận của bà S 200.000.000 đồng đưa cho ông Ngô Gia P, tổng hai đợt là 600.000.000 đồng. Có mượn H4 10.000.000 đồng”. Ông H4 ký tên trên cả hai giấy xác nhận. Ông H4 cũng là người ký tên làm chứng trên hai giấy vay mượn tiền có tài sản bảo đảm giữa bà S và ông P.

- Một phiếu thu ngày 10/10/2020 có nội dung “bà Cao Thị Mỹ Chi t của bà S số tiền 250.000.000 đồng chuyển tiền cho Ngô Gia P”.

- Một ủy nhiệm chi ngày 13/10/2020 tại Ngân hàng TMCP N2 có nội dung “bà S chuyển cho bà Cao Thị Kim N1 số tiền 60.000.000 đồng để trả tiền lãi cho Ngô Gia P”.

- Một ủy nhiệm chi ngày 05/6/2020 tại Ngân hàng TMCP Á có nội dung: “Phan Việt H5 chuyển cho bà S mượn số tiền 4.850.000.000 đồng”. Bà S trình bày ông H5 chuyển tiền cho bà S theo yêu cầu của ông P. Ngày 05/6/2020 cũng là ngày bà S và ông P lập giấy vay tiền.

Như vậy, việc xác định ông Lê Sơn H4, ông Phan Việt H5, bà Cao Thị Kim C, bà Cao Thị Kim N1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cần thiết, đúng quy định.

Hồ sơ vụ án thể hiện cấp sơ thẩm đã có các giấy triệu tập xác định bà Nguyễn Thụy Biên T5 (vợ ông Ngô Gia P), bà Khổng Thị T7 (vợ ông Đặng Hoàng V), ông Lê Sơn H4, ông Phan Việt H5, bà Cao Thị Kim C, bà Cao Thị Kim N1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tại các bản tự khai, các ông bà Lê Sơn H4, Phan Việt H5, Cao Thị Kim C, Cao Thị Kim N1 đều có lời khai số tiền nhận từ bà S là tiền lãi trả cho ông Lê Sơn H4, không phải trả lãi cho ông P; điều này trái ngược với nội dung tại các giấy xác nhận và ủy nhiệm chi do chính các ông bà này lập. Lẽ ra, khi có sự mâu thuẫn, không thống nhất giữa lời khai và các tài liệu, chứng cứ trong vụ án, cấp sơ thẩm cần tiến hành cho đối chất giữa nguyên đơn, bị đơn cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan này để làm rõ về vấn đề vay mượn tiền và trả lãi. Tuy nhiên, sau khi các ông bà trên có bản tự khai, đơn xin vắng mặt tại Tòa án thì cấp sơ thẩm không đưa họ vào tham gia tố tụng trong vụ án nữa.

Tại các biên bản hòa giải, biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, Bản án đều không có tên bà Nguyễn Thụy Biên T5, bà Khổng Thị T7, ông Lê Sơn H4, ông Phan Việt H5, bà Cao Thị Kim C, bà Cao Thị Kim N1 tham gia với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Sau khi phát hành bản án ngày 05/01/2023, đến ngày 11/01/2023 cấp sơ thẩm chỉ có một Quyết định bổ sung bản án số 01/2023/QĐ-SCBSQĐ với nội dung: “Bổ sung người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thụy Biên T5..Bản án sơ thẩm cũng không có bất kỳ nhận định nào giải thích về việc không đưa các ông bà Khổng Thị T7, Lê Sơn H4, Phan Việt H5, Cao Thị Kim C, Cao Thị Kim N1 vào tham gia tố tụng.

[4] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

[5] Án phí dân sự phúc thẩm nguyên đơn không phải chịu.

Bởi các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, 1. Hủy bản án sơ thẩm số 04/2023/DS-ST ngày 05 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.

Chuyển hồ sơ vụ án về cho Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại theo quy định pháp luật.

2. Án phí phúc thẩm:

- Nguyên đơn không Phải chịu án phí phúc thẩm.

Hoàn trả lại cho bà Nguyễn Huỳnh Bảo N số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0042453 ngày 06/02/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh.

Hoàn trả lại cho bà Nguyễn Huỳnh Bảo T số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0042454 ngày 06/02/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

57
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 818/2023/DS-PT

Số hiệu:818/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:07/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về