TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 53/2024/DS-PT NGÀY 13/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong ngày 13 tháng 03 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 175/2023/TLPT-DS ngày 12 tháng 10 năm 2023 về Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do bản án dân sự sơ thẩm số 24/2023/DS-ST ngày 01 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 181/2023/QĐ-PT ngày 26 tháng 10 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 249/2023/QĐ- PT ngày 29/11/2023, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 115/2023/QĐ-PT ngày 18/12/2023; Thông báo thay đổi thời gian xét xử số 15/2024/TB-TA ngày 15/01/2024, Thông báo thay đổi thời gian xét xử số 32/2024/TB-TA ngày 31/01/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 71/2024/QĐ-PT ngày 01/03/2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: chị Trần Thị Lan A sinh năm 1993 (vắng mặt);
Địa chỉ: khu phố A, phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo ủy quyền:
- Ông Nguyễn Tuấn A1 sinh năm 1992 (vắng mặt);
Địa chỉ: số H, tổ dân phố C, phường Q, quận H, thành phố Hà Nội. Giấy ủy quyền ghi ngày 27/8/2022.
- Ông Vũ Văn M sinh năm 1995 (vắng mặt);
Địa chỉ: xóm P, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Giấy ủy quyền ghi ngày 27/8/2022.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị A1: Luật sư Vũ Văn Q (có mặt), luật sư Dương Đức T (vắng mặt) đều thuộc công ty L trụ sở tại tầng 6, số A ngõ B, Trần Duy H, T, cầu G, thành phố Hà Nội;
Bị đơn:
- Ông Nguyễn Ngọc T1 sinh năm 1980 (xin vắng mặt);
Địa chỉ: thôn V, xã T, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.
- Bà Bùi Thị T2 sinh năm 1983 (vắng mặt);
Địa chỉ: thôn N, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Bà Trần Thị N sinh năm 1966 (vắng mặt);
- Ông Trần Văn T3 sinh năm 1962 (vắng mặt);
- Anh Trần Văn V sinh năm 1987 (có mặt);
Đều địa chỉ: thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
- Anh Nguyễn Ngọc Đức A2 sinh năm 2003 (xin vắng mặt);
Địa chỉ: thôn V, xã T, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.
- Ông Thân Văn Á sinh năm 1973 (vắng mặt);
- Bà Bùi Thị Tân sinh năm 1975 (xin vắng mặt);
Đều địa chỉ: thôn T, xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.
- UBND huyện L do ông Nguyễn Văn Đ - Trưởng phòng Tài Nguyên M huyện L đại diện theo ủy quyền (vắng mặt);
- UBND xã T do ông Nguyễn Văn Đ- Chủ tịch đại diện (vắng mặt).
Người kháng cáo: bị đơn ông Nguyễn Ngọc T1 và bà Bùi Thị T2, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị T4.
Người kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) huyện L, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2023/DS-ST ngày 01/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang thì nội dung vụ án như sau:
Nguyên đơn - chị Trần Thị Lan A trình bày: hộ gia đình chị gồm có bố, mẹ anh là ông Trần Văn T3, bà Trần Thị N, anh Trần Văn V (là anh trai) và chị là người được sử dụng hợp pháp đối với thửa đất số 111, tờ bản đồ số 50, diện tích 635,6m2 đã được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ ngày 29/12/2005 cho hộ ông Trần Văn T3, bà Trần Thị N tại thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Ngày 03/12/2009, ông T3, bà N và anh V đã chuyển quyền sử dụng thửa đất số 111, tờ bản đồ số 50, diện tích 635,6m2 tại thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang cho ông Nguyễn Ngọc T1, bà Bùi Thị T2 mà không có sự đồng ý của chị. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được UBND xã T chứng thực theo số 93/2009 quyển 01/2005/TP/CC-SCT-HDGD. Nội dung hợp đồng các bên thỏa thuận, đối tượng chuyển nhượng là quyền sử dụng đất, thửa số 111, tờ bản đồ 50. Việc chuyển nhượng QSDĐ đã được chỉnh sửa trang 4 của GCNQSDĐ cấp cho hộ ông T3, bà N ngày 10/12/2009 (hộ ông Nguyễn Ngọc T1, sinh năm 1980..... đồng sử dụng là bà Bùi Thị T2 sinh năm 1983 ....) nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hợp đồng chứng nhận QSDĐ đã ký kết chứng thực tại UBND xã T ngày 03/12/2009 do văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện L xác nhận tại trang 4. Tại thời điểm ký kết hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ nêu trên, chị A đang đi học ở Hải Phòng cũng ít về gia đình nhưng không được ông T3, bà N, anh V thông báo về việc chuyển nhượng thửa đất. Chị A cũng không có bất cứ văn bản nào đồng ý về việc chuyển nhượng thửa đất. Đến thời gian sau này, anh V thực hiện khởi kiện đối với ông T1, bà T2 về việc phải trả lại gia đình chị diện tích đã lấn chiếm dôi dư ngoài diện tích đã được cấp 635,5m2 ngày 29/12/2005 thì chị A mới được biết ông T3, Bà N, anh V đã tự thực hiện chuyển nhượng thửa đất có diện tích 635,6m2 cho ông T1, bà T2 với giá chuyển nhượng là 254.000.000đ. điều này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chị theo quy định của pháp luật, số tiền ông T3, bà N, anh V chuyển nhượng thửa đất trên cho ông T1, bà T2, chị không được sử dụng.
Nay chị đề nghị Tòa án xem xét giải quyết:
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ được UBND xã T chứng thực giữa ông T3, bà N, anh V và ông T1, bà T2 đối với thửa đất số 111, tờ bản đồ 50, diện tích 635,5m2 được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ ngày 29/12/2005 cho hộ ông T3, bà N vô hiệu một phần.
- Giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ vô hiệu một phần và buộc ông T1, bà T2 trả lại quyền sử dụng một phần đất nằm trong thửa đất số 111, tờ bản đồ 50, diện tích 635,5m2 được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ ngày 29/12/2005 cho hộ ông T3, bà N theo quy định của pháp luật.
Người đại diện theo ủy quyền chị Trần Thị Lan A là ông Nguyễn Tuấn A1 trình bày: Ông nhất trí toàn bộ lời trình bày trong bản tự khai của chị A1 và ông trình bày tiếp trong bản tự khai: Việc hộ ông T3, bà N được cấp GCNQSDĐ thửa đất số 111, tờ bản đồ số 50, diện tích 635,6m2 ở tại thôn T, xã T, huyện L. Việc UBND huyện L cấp GCNQSDĐ cho hộ ông T3, bà N thửa đất trên là gồm có 4 thành viên trong hộ gia đình: Ông T3, bà N, anh V, chị A1. Ngày 03/12/2009 ông T3, bà N, anh V đã tự chuyển nhượng thửa đất trên cho vợ chồng anh T1, chị T2 mà không thông báo cho chị A1 biết, chị A1 không được ký xác nhận vào hợp đồng chuyển nhượng thửa đất trên do vậy đã xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của chị A1 và chị A1 cũng không được sử dụng số tiền trên. Thời điểm chuyển nhượng chị A1 không có mặt tại địa phương, chị đang đi học ở Hải Phòng. Nay đề nghị Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa vợ chồng ông T3, bà N, anh V với anh T2, chị T1 là vô hiệu một phần và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu một phần theo đúng quy định của pháp luật.
Bị đơn - ông Nguyễn Ngọc T1 trình bày: Ngày 03/12/2009, vợ chồng ông có biết vợ chồng ông 3, bà N muốn bán thửa đất ở số 111, tờ bản đồ 50, diện tích 635,6m2 đã được UBND huyện L cấp ngày 29/12/2005 cho hộ ông T3, bà N. Vợ chồng ông đã gặp vợ chồng ông T3, bà N và anh V là con trai và giữa 2 bên đi đến thống nhất là vợ chồng ông T3, bà N cùng với anh V nhất trí chuyển nhượng cho vợ chồng ông thửa đất trên, trị giá thửa đất là 254.000.000đ. Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ đã được chứng thực tại UBND xã T ngày 03/12/2009. Khi vợ chồng ông nhận chuyển nhượng thửa đất trên thì chị A1 là con ông T3, bà N, thời điểm đó có nhà hay không thì ông cũng không biết nhưng ông T3 có nói vợ chồng ông là chị A1 còn ít tuổi, không phải ký, vợ chồng ông đã tin tưởng như vậy nên đã mua nhận chuyển nhượng thửa đất trên. Sau khi nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông T3, bà N, anh V, vợ chồng ông đã đổ đất, san lấp trên thửa đất nhận chuyển nhượng và phần diện tích liền kề với thửa đất trên có phía Đông tiếp giáp với đường tỉnh lộ 295, khối lượng đổ đất ông cũng không xác định được. Nay chị A1 có yêu cầu đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa vợ chồng ông với ông T3, bà N, anh V là vô hiệu và giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu, ông không nhất trí vì việc chuyển nhượng mua bán thửa đất trên giữa vợ chồng ông với vợ chồng ông T3, bà N, anh V là sự thật và đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nay đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
Bị đơn - bà Bùi Thị T2 trình bày: Năm 2009 qua sự giới thiệu của chú rể bà có quan hệ với bố đẻ bà (khi đó bà và ông T1 là vợ chồng chưa ly hôn) để mua thửa đất 635,6m2 ở thôn T, xã T, huyện L của gia đình ông T3, bà N. Khi vợ chồng bà gặp vợ chồng ông T3, bà N trao đổi và đi đến thống nhất chuyển nhượng đất cho nhau, trị giá thửa đất 254.000.000đ. Vợ chồng bà đã thanh toán xong cho vợ chồng ông T3, bà N, anh V, nay không có vướng mắc gì. Hợp đồng chuyển nhượng giữa vợ chồng bà với vợ chồng ông T3 đã được chứng thực tại UBND xã T theo đúng pháp luật quy định. Trong hợp đồng chuyển nhượng có cả anh V là con trai ông T3, bà N ký đồng ý. Trước khi mua đất của vợ chồng ông T3, vợ chồng bà đã hỏi rõ vợ chồng ông T3 việc chuyển nhượng thửa đất ở 635,6m2 thì có liên quan đến các thành viên là con cái trong gia đình ông T3 không. Ông T3 nói nguồn gốc đất bán này là của vợ chồng ông mua lại của UBND xã T từ trước năm 2010 do vậy các thành viên trong gia đình ông không liên quan đến thửa đất nên vợ chồng bà mới nhất trí mua. Sau khi mua xong, vợ chồng bà đã mua đất san lấp trên thửa đất 635,6m2 và phần đất hành lang liền kề với thửa đất vợ chồng bà mua, không ai ý kiến gì. Nay chị A1 đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng thửa đất 635,6m2 giữa vợ chồng bà với ông T3, bà N, anh V là vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, bà hoàn toàn không nhất trí, bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - anh Nguyễn Ngọc Đức A2 trình bày: anh là con của bố Nguyễn Ngọc T1, mẹ Bùi Thị T2. Năm 2009 bố, mẹ anh có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất có diện tích 635,6m2 đất ở tại thôn T, xã T, huyện L của ông Trần Văn T3 và bà Trần Thị N. Việc chuyển nhượng của bố, mẹ anh với ông T3, bà N là việc của bố, mẹ anh, anh không có liên quan và ý kiến gì. Nay xảy ra tranh chấp giữa chị A2 với bố, mẹ anh, anh đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Trần Văn T3, bà Trần Thị N trình bày: Hộ gia đình ông, bà gồm có: Ông (Trần Văn T3), bà Trần Thị N, anh Trần Văn V sinh năm 1987 và chị Trần Thị Lan A sinh năm 1993 đều là con của vợ chồng ông, bà. Thửa đất số 111, tờ bản đồ số 50, diện tích 635,6m2 đã được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ cho hộ ồng Trần Văn T3, bà Trần Thị N ngày 29/12/2005 ở tại thôn T, xã T, huyện L. Ngày 03/12/2009 vợ chồng ông, bà cùng với anh V đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất trên cho vợ chồng ông Nguyễn Ngọc T1, bà Bùi Thị T2 với giá trị chuyển nhượng là 254.000.000đ. Hợp đồng chuyển nhượng đã được UBND xã T chứng thực ngày 10/12/2009 theo số 93/2009 quyền 01/2005/TP/CC-SCT-HĐGD.
Thời điểm ký kết hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, ông, bà, anh V cũng không thông báo cho chị A là con ông, bà và là thành viên trong hộ gia đình biết việc chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông T1, bà T2 vì thời điểm đó chị A đang học ở Hải Phòng, ít khi về gia đình. Khi làm hợp đồng chuyển nhượng với vợ chồng ông T1, bà T2 thì vợ chồng ông T1, bà T2 có hỏi ông, bà thì ngoài con là ông V thì còn ai nữa không? Ông, bà có nói rõ còn chị A là con gái, hiện đang học phổ thông ở Hải Phòng và vợ chồng ông, bà có hỏi lại vợ chồng ông T1, bà T2 là có chờ chị A về để làm thủ tục ký xác nhận trong hợp đồng chuyển nhượng đất không, thì vợ chồng ông T1, bà T2 có nói rõ với vợ chồng ông, bà và anh V 1 cứ làm hợp đồng, khi nào chị A về thì chị A ký sau cũng được. Nên 2 bên đã làm các thủ tục theo quy định của pháp luật và đã được văn phòng đăng ký QSDĐ chỉnh sửa tại trang 4 của GCNQSDĐ là xác nhận ngày chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông T1, bà T2 với giá trị chuyển nhượng thửa đất là 254.000.000đ. Sau khi ông, bà nhận tiền do trước đó ông, bà có 1 số việc làm ăn riêng bị thua lỗ nên khi nhận số tiền chuyển nhượng đất, ông, bà đã sử dụng trả nợ và chi tiêu hết, không đưa cho chị A đồng nào. Nay chị A yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông, bà, anh V với vợ chồng ông T1, bà T2 là vô hiệu một phần và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật, ông, bà cũng hoàn toàn nhất trí. Vì vợ chồng ông, bà thấy rằng khi hợp đồng chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông T1, bà T2 thì chị A khi đó đã 16 tuổi, không được sự đồng ý của chị A nên đã xâm phạm quyền lợi của chị A. Sau khi vợ chồng ông nhận chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông T1, bà T2, toàn bộ số tiền chuyển nhượng vợ chồng ông, bà không đưa tiền cho chị A mà sử dụng riêng hết.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - anh Trần Văn V trình bày:
Anh là con của ông T3, bà N. Toàn bộ nội dung yêu cầu trong bản tự khai của bố, mẹ anh trình bày đã gửi cho Tòa án, anh hoàn toàn nhất trí. Anh trình bày tiếp: Ngày 03/12/2009 anh cùng với bố, mẹ anh chuyển nhượng thửa đất số 111, tờ bản đồ số 50, diện tích 635,6m2 đã được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Trần Văn T3, bà Trần Thị N ngày 29/12/2005 ở tại thôn T, xã T, huyện L cho ông T1, bà T2 với giá trị chuyển nhượng là 254.000.000đ mà không có sự đồng ý của chị Trần Thị Lan A là con của bố, mẹ anh. Thời điểm ký kết hợp đồng chuyển nhượng, chị A là 1 thành viên trong hộ gia đình anh nhưng cũng không được bố, mẹ anh và anh thông báo về việc chuyển nhượng đất. Khi đó chị A đang học cấp 3 tại Hải Phòng cũng thỉnh thoảng về gia đình. Khi chuyển nhượng thửa đất, bố, mẹ anh cũng nói rõ với vợ chồng ông T1, bà T2 về việc chị A trong hộ gia đình anh không có mặt tại địa phương, cần thiết phải chờ chị A về để ký xác nhận vào hợp đồng chuyển nhượng không. Vợ chồng ông T1, bà T2 trả lời cứ ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất đã sau chị A về ký sau cũng được nên bố, mẹ anh và anh đã làm hợp đồng chuyển nhượng và có chứng thực của UBND xã T đã được văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện L xác nhận về việc chuyển nhượng thửa đất trên cho ông T1, bà T2. Số tiền vợ chồng ông T1, bà T2 trả cho ông T3, bà N, chị A cũng không được sử dụng mà do bố, mẹ anh sử dụng hết. Nay chị A yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bố, mẹ anh và anh với vợ chồng ông T1, bà T2 vô hiệu một phần và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, anh hoàn toàn nhất trí.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Thân Văn Á trình bày:
Năm 2018, vợ chồng ồng có nhận chuyển nhượng thửa đất có diện tích 635,5m2 ở tại thôn T, xã T, huyện L của vợ chồng ông Nguyễn Ngọc T1, bà Bùi Thị T2 trị giá 1.000.000.000 đồng. Sau khi mua bán chuyển nhượng xong, vợ chồng ông cũng thanh toán xong số tiền cho ông T1, bà T2. Ngay sau đó vợ chồng ông đã làm thủ tục hợp đồng chuyển nhượng thửa đất trên và có chứng thực hợp đồng chuyển nhượng tại văn phòng C2, địa chỉ: Thị trấn V, huyện L và đã gửi hồ sơ đến văn phòng đăng ký đất đai huyện L để làm thủ tục cấp GCNQSDĐ cho vợ chồng ông. Khi nhận chuyển nhượng thửa đất của vợ chồng ông T1, vợ chồng ông đã quản lý thửa đất và cho anh Q1, chị H1 thuê để sử dụng việc gì anh không để ý. Sau vợ chồng anh Q1 sử dụng 1 thời gian ngắn thì trả lại vợ chồng ông, không thuê nữa. Khi nhận chuyển nhượng thửa đất trên của vợ chồng ông T1, trên đất cũng không có tài sản gì. Nguồn gốc thửa đất của vợ chồng ông nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông T1, vợ chồng ông được biết là của vợ chồng ông T3, bà N. Nay chị A yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa vợ chồng ông T3, vợ chồng ông T1, bà T2 là vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Bùi Thị T4 trình bày: Bà là vợ ông Á. Tháng 12/2018 vợ chồng bà có mua lại thửa đất có diện tích 365,5m2 của vợ chồng ông T1, bà T2. Nguồn gốc thửa đất này vợ chồng ông T1, bà T2 nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông T3, bà N ở thôn T, xã T, huyện L và đã được văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất xác nhận việc chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông T3 và vợ chồng ông T1 ở tại trang 4 giấy chứng nhận QSDĐ theo đúng quy định của pháp luật. Sau khi nhận chuyển nhượng đất của vợ chồng ông T1 thì vợ chồng bà đã làm thủ tục công chứng tại văn phòng C2 địa chỉ thị trấn V, huyện L nhưng chưa được văn phòng đăng ký đất huyện L cấp GCNQSDĐ cho vợ chồng bà thửa đất trên. Nay vợ chồng bà không nhất trí toàn bộ yêu cầu của chị A, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - UBND huyện L do Ông Nguyễn Văn Đ - Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện L trình bày: ngày 29/12/2005 UBND huyện L cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Trần Văn T3, bà Trần Thị N tại thửa đất số 111, tờ bản đồ số 50, diện tích 635,6m2 tại thôn T, xã T, huyện L.
Ngày 03/12/2009 ông T3, bà N, anh V đã lập hợp đồng chuyển nhượng thửa đất trên cho ông Tl, bà T2 đều địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện T, Bắc Ninh. Tại thời điểm ký kết hợp đồng, bà Lan A không được các thành viên thông báo cho biết việc chuyển nhượng QSDĐ nêu trên, bà cũng không có văn bản nào đồng ý việc chuyển nhượng trên. Sau khi ông V khởi kiện ông T1, bà T2 trả lại phần diện tích đất dôi dư ngoài diện tích đất chuyển nhượng theo giấy chứng nhận QSDĐ thì bà Lan A mới biết các bên chuyển nhượng đất cho nhau. Điều này đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Lan A. Nay bà Lan A có đơn khởi kiện tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất giữa các bên là vô hiệu.
UBND huyện lạng G có ý kiến như sau: Qua kiểm tra hộ khẩu của hộ ông Trần Văn T3 lưu tại Công an xã T có theo dõi tại thời điểm tháng 04/2003 gồm các thành viên: Ông Trần Văn T3 chủ hộ sinh năm 1962, bà Trần Thị N là vợ sinh năm 1966, ông Trần Văn V con đẻ sinh năm 1987, bà Trần Thị Lan A con đẻ sinh năm 1993.
Ngày 03/12/2009 hộ ông T3, bà N, anh V lập hợp đồng chuyển nhượng thửa đất trên cho ông T1, bà T2. Thời điểm năm 2009 bà Lan A được 16 tuổi, căn cứ khoản 2 Điều 109 BLDS năm 2005 Có quy định về quyền chiếm hữu sử dụng định đoạt tài sản chung của hộ gia đình: Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; Đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số các thành viên đủ 15 tuổi trở lên đồng ý” . Nay xảy ra tranh chấp giữa các đương sự, đề nghị Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - UBND xã T đo ông Nguyễn Văn Đ - Chủ tịch xã trình bày: ngày 10/12/2009 UBND xã T đã chứng thực hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Trần Văn T3, bà Trần Thị N, anh Trần Văn V với ông Nguyễn Ngọc T1, bà Bùi Thị T2. Vợ chồng ông T3, bà N chuyển nhượng cho ông T1, bà T2 thửa đất có diện tích 635,6m2 đã được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ ngày 29/12/2005 ở thửa đất số 111, tờ bản đồ số 50 tại thôn T, xã T, huyện L cho hộ ông Trần Văn T3, bà Trần Thị N. Thời điểm hộ ông T3 được cấp GCNQSDĐ gia đình nhà ông T3 có 4 khẩu gồm vợ chồng ông T3, bà N, các con là anh Trần Văn V, chị Trần Thị Lan A. Hợp đồng chuyển nhượng được thỏa thuận giữa hai bên trên tinh thần tự nguyện, không bị lừa dối, không bị ép buộc và cam đoan chịu trách nhiệm về nội dung hợp đồng, thực hiện đầy đủ các thỏa thuận đã ghi trong hợp đồng, cam đoan về các thân nhân liên quan đến hợp đồng là đúng sự thật. Mặc dù khi chứng thực hợp đồng tại địa phương chị A không có mặt tại địa phương. Nay chị Trần Thị Lan A có đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ trên vô hiệu một phần và giải quyết hậu quả của hợp đồng. Theo quan điểm của địa phương, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Với nội dung trên, Bản án dân sự số 24/2023/DS-ST ngày 01 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang đã xử:
Áp dụng các Điều 26, Điều 35, Điều 147, Điều 165, Điều 227, 228, Điều 271, Điều 272, Điều 273 BLTTDS; Điều 109, Điều 122, Điều 128, Điều 131 BLDS năm 2005, Điều 117, Điều 119, Điều 123, Điều 129, Điều 131, Điều 212 BLDS năm 2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án. Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Lan A đối với ông Nguyễn Ngọc T1, bà Bùi Thị T2 về tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được UBND xã T chứng thực ngày 03/12/2009 giữa ông Trần Văn T3, bà Trần Thị N, anh Trần Văn V với ông Nguyễn Ngọc T1, bà Bùi Thị T2. Thửa đất có diện tích 635,6m2 tại thửa số 111, tờ bản đồ số 50 tại thôn T, xã T, huyện L đã cấp cho hộ ông Trần Văn T3, bà Trần Thị N ngày 29/12/2005 đã được văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện L xác nhận ngày 10/12/2009 ở trang 4 GCNQSDĐ cho hộ ông Nguyễn Ngọc T1, bà Bùi Thị T2 được quyền sử dụng thửa đất trên là vô hiệu một phần.
Buộc ông Nguyễn Ngọc T1, bà Bùi Thị T2 phải giao trả lại cho chị Trần Thị Lan A diện tích 158,9m2 đất ở nằm trong tổng diện tích 635,6m2 đất tại thửa đất số 111, tờ bản đồ số 50 thuộc thôn T, xã T, huyện L đã được văn phòng đăng ký QSDĐ xác nhận tại trang 6 GCNQSDĐ ngày 10/12/2009 cho hộ ông nguyễn Ngọc T5, bà Bùi Thị T2 theo hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ đã ký kết chứng thực tại UBND xã T ngày 03/12/2009. Thửa đất có hình thang ký hiệu HG = 18,88; GM = 3,72 + 4,77; MK =15,99; KH =9,86 (có sơ đồ kèm theo).
Buộc chị Trần Thị Lan A phải thanh toán trả ông T5 số tiền là 19.663.875đ, bà Bùi Thị T2 số tiền là 19.663.875 đồng (tiền đổ đất trên diện tích 158,9m2).
Buộc ông Trần Văn T3 trả cho ông Nguyễn Ngọc T1 tổng số tiền 342.156.666 đồng.
Buộc bà Trần Thị N trả cho ông Nguyễn Ngọc T1 số tiền là 171.078.333 đồng, trả bà Bùi Thị T2 171.078.333 đồng.
Buộc anh Trần Văn V trả cho bà Bùi Thị T2 số tiền là 342.156.666 đồng.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền yêu cầu thi hành án, quyền kháng cáo cho các bên đương sự.
Ngày 19/6/2023, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Bùi Thị T4 kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm. Bà T4 nêu không được tham gia phiên tòa sơ thẩm, khi biết được kết quả sơ thẩm, bà không đồng ý với kết quả của bản án sơ thẩm.
Ngày 26/6/2023, bị đơn - bà Bùi Thị T2 kháng cáo toàn bộ Bản án.
Ngày 26/6/2023, bị đơn - ông Nguyễn Ngọc T1 kháng cáo một phần Bản án về hậu quả khi tuyên hợp đồng vô hiệu.
Ngày 16/6/2023, Viện trưởng VKSND huyện Lạng Giang có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐ-VKS-DS kháng nghị toàn bộ Bản án sơ thẩm và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị A.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Ngọc T1, bà Bùi Thị T4 xin vắng mặt, đại diện theo ủy quyền của chị Lan A, bà Bùi Thị T2 vắng mặt không có lý do. Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang tham gia phiên tòa trình bày giữ nguyên nội dung kháng nghị.
Luật sư Q, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị A trình bày, yêu cầu khởi kiện của chị Lan A hoàn toàn có căn cứ, bởi thời điểm cấp GCNQSDĐ cho hộ ông T3, bà N thì chị Lan A là một thành viên của hộ gia đình ông T3. Năm 2009 ông T3, bà N, anh V chuyển nhượng thửa đất trên cho anh T1, chị T2 đã không thông báo cho chị Lan A biết nên phần quyền của chị Lan A bị ảnh hưởng và vô hiệu. Đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của anh T1, chị T2, chị T4 và kháng nghị của Viện trưởng VKSND huyện Lạng Giang, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Anh V trình bày: đồng ý với quan điểm của Luật sư Q, đề nghị HĐXX xem xét.
Tham gia phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu ý kiến: quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi mở phiên tòa và tại phiên tòa, Thư ký, Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đúng, đủ các quy định của B luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Sau khi xem xét yêu cầu kháng cáo của anh T1, chị T4, chị T2 và kháng nghị của Viện trưởng VKSND huyện Lạng Giang, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX phúc thẩm: căn cứ khoản 3 Điều 296 của BLTTDS đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của chị T2; căn cứ khoản 2 Điều 308 của BLTTDS, chấp nhận kháng cáo của chị T4 và kháng nghị của Viện trưởng VKSND huyện Lạng Giang, chấp nhận một phần kháng cáo của anh T1. Xử; sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lan A; đề nghị giải quyết lại án phí sơ thẩm, giải quyết án phí phúc thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về sự vắng mặt của các đương sự: anh Nguyễn Tuấn A1, anh Vũ Văn M là đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không có kháng cáo, đại diện UBND huyện L, đại diện của UBND xã T, bà Trần Thị N, ông Trần Văn T3 là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa mở lần thứ hai không có lý do; anh Nguyễn Ngọc Đức A2 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Ngoe T6, chị Bùi Thị T4 là người có kháng cáo có đơn xin xét xử vắng mặt; chị Bùi Thị T2 là bị đơn có kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 296 của BLTTDS quyết định xét xử vụ án.
[2]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tuyên bố hợp đồng vô hiệu, giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu” là không đúng quy định tại Điều 26 của BLTTDS. Vì vậy HĐXX phúc thẩm xác định lại quan hệ tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của BLTTDS.
[3]. Xét kháng cáo của đương sự và kháng nghị của Viện trưởng VKSND huyện Lạng Giang HĐXX thấy:
[3.1]. Hộ ông Trần Văn T3, bà Trần Thị N có diện tích 635,6m2 (thực đo ngày 16/11/2022 là 635,6m2), thửa đất số 111, tờ bản đồ số 50 đã được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ ngày 29/12/2005 tại thôn T, xã T, huyện L. Theo UBND xã T cung cấp tại văn bản ngày 29/01/2024 thì nguồn gốc diện tích đất này ông T3 được UBND xã giao đất trái thẩm quyền diện tích 360m2 đất thổ cư, loại đất trước khi giao là đất hoang giai đoạn 1993 - 1998, ông T3 phải nộp số tiền 3.600.000 đồng và đã nộp đủ. Trong hồ sơ, tài liệu lưu tại UBND xã T không có tài liệu nào ghi cấp cho hộ ông Trần Văn T3 hoặc cấp cho ông Trần Văn T3 và bà Trần Thị N mà trong tài liệu chỉ ghi ông Trần Văn T3.
[3.2]. Ngày 03/12/2009, ông T3, bà N, anh V lập hợp đồng chuyển nhượng thửa đất trên cho ông T6, bà T2 và được UBND xã T chứng thực cùng ngày với giá trị chuyển nhượng là 254.000.000đ. Sau khi được chứng thực, ngày 10/12/2009 Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện L đã chỉnh lý trang 4 của GCNQSDĐ sang tên hộ ông Nguyễn Ngọc T1, bà Bùi Thị T2. Ông T3, bà N, anh V đà nhận đủ số tiền chuyển nhượng trên và giao toàn bộ thửa đất cho anh T1, chị T2. Sau khi nhận chuyển nhượng thửa đất 635,6m2 năm 2012, vợ chồng ông T1, bà T2 đã đổ 1.750m3 đất, tính trung bình 1m2 đổ 2,75m3 đất. Tổng trị giá thành tiền 157.500.000 đồng (tính 90.000đ/1m3 đất) (theo thống nhất xác nhận của các bên đương sự). Ngoài ra vợ chồng anh T1, chị T2 còn đổ đất để tân phần diện tích liền kề với thửa đất trên có phía Đông tiếp giáp với đường tỉnh lộ 295 thuộc đất hành lang chưa giao cho ai quản lý, sử dụng với khối lượng đổ 2.250m3 đất năm 2012, giá đất đổ trên nền cấp 3 là 90.000đ/1m3 x 2.250m3 = 202.500.000 đồng.
[3.3] . Tháng 12/2018, ông T1, bà T2 đã ký HĐCNQSDĐ thửa đất số 111 cho ông Thân Văn Á và bà Bùi Thị T4; hợp đồng được công chứng tại Văn phòng C2, thị trấn V, huyện L với giá 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng). Anh T1, chị T2 đã nhận đủ tiền và bàn giao đất cho anh Ánh, chị T4 quản lý sử dụng từ đó cho đến nay. Anh Ánh, chị T4 nộp hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ thì bị trả lại do có tranh chấp theo đơn khởi kiện của anh V đối với anh T1, chị T2 về phần diện tích đất thuộc hành lang giao thông phía trước.
[3.4]. Ngày 13/9/2021, chị A2 có nhận được thông báo thụ lý vụ án bổ sung số 63/2021 ngày 08/9/2021 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, chị là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án chị A2 mới biết việc các bên chuyển nhượng đất trên, chị A2 đã có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang tuyên bố HĐCNQSDĐ đã được UBND xã T chứng thực giữa ông T3, bà N, anh V và ông T1, bà T2 đối với thửa đất số 111, tờ bản đồ số 50, diện tích 635,6m2 theo GCNQSDĐ mà UBND huyện L cấp ngày 29/12/2005 cho hộ ông Trần Văn T3, bà Trần Thị N là vô hiệu một phần và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu một phần, buộc ông T1, bà T2 trả lại quyền sử dụng thửa đất số 111, tờ bản đồ số 50, diện tích 635,6m2 trị giá 6.673.800.000đ theo biên bản định giá lại ngày 01/3/2023 theo quy định của pháp luật. Phía ông Nguyễn Ngọc T1, bà Bùi Thị T2 không chấp nhận.
[4]. Xét yêu cầu khởi kiện của chị A2, HĐXX thấy: diện tích 635,6m2 (thực đo ngày 16/11/2022 là 635,6m2), thửa đất số 111, tờ bản đồ số 50 đã được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ ngày 29/12/2005 ghi cấp cho hộ ông T3, bà N. Tại bản tự khai ngày 30/6/2022 (bút lục số 107), bà N trình bày nguồn gốc thửa đất này là do ông bà để lại và một phần do đổi đất với bà Ngô Thị C ngày 15/3/1989 có xác nhận của UBND xã T. Hồ sơ cấp GCNQSDĐ của hộ ông T3, bà N thể hiện: ngày 23/10/2005, bà N ký đơn xin cấp GCNQSDĐ, đơn có nội dung ghi họ tên người sử dụng đất là ông Trần Văn T3, họ tên vợ là Trần Thị N có xác nhận của UBND xã ngày 20/12/2005. Quá trình xét xử phúc thẩm, UBND xã T cung cấp nguồn gốc diện tích đất này ông T3 được UBND xã giao đất trái thẩm quyền diện tích 360m2 đất thổ cư trước năm 1993 với giá 3.600.000 đồng, ông T3, bà N đã nộp đủ tiền cho UBND xã.
Như vậy, có căn cứ xác định nguồn gốc thửa đất số 111 có từ trước khi chị Lan A sinh ra, một phần được UBND xã giao trái thẩm quyền phải nộp tiền vào ngân sách, một phần đổi của bà C1 năm 1989. Chị Lan A không có chứng cứ nào chứng minh chị có phần quyền sử dụng thửa đất số 111. Đơn xin đăng ký QSDĐ ghi rồ đích danh xin cấp cho ông T3 và bà N, không phải là đơn xin cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình ông T3. Số tiền 3.600.000 đồng nộp tiền giao đất trái thẩm quyền là của ông T3, bà N, không có đóng góp của chị Lan A. Trên đất đã chuyển nhượng, thời điểm chuyển nhượng không có tài sản gì, không có tài liệu, chứng chứng cứ nào thể hiện có công sức tôn tạo, phát triển giá trị đất hoặc tài sản trên đất của chị Lan A. Nên xác định thửa đất số 111 chỉ thuộc quyền sử dụng của ông T3, bà N. Chị Lan A không có quyền sử dụng đối với thửa đất số 111.
[5]. Ngày 03/12/2009, ông T3, bà N và anh V (con trai ông T3, bà N) đã tự nguyện, thỏa thuận ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 111 cho ông T1, bà T2. Ông T3, bà N đã được cấp GCNQSDĐ, đất không có tranh chấp, QSDĐ không bị kê biên để bảo đảm thi hành án; ông T1, bà T2 đã thanh toán đủ tiền, hai bên đã bàn giao đất; Hợp đồng được UBND xã T chứng thực ngày 10/12/2009; Văn phòng đăng ký QSDĐ huyện L chỉnh lý trang 4 GCNQSDĐ sang tên ông T1, bà T7. Nên xác định HĐCNQSDĐ trên là có hiệu lực pháp luật theo quy định tại các Điều 106 Luật đất đai năm 2003; Điều 689, Điều 691, Điều 692, từ Điều 697 đến Điều 702 Bộ luật dân sự năm 2005.
[6]. Chị Lan A khởi kiện, đề nghị tuyên bố HĐCNQSDĐ trên vô hiệu một phần; giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật. Việc Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết chấp nhận yêu cầu của chị Lan A và tuyên bố HĐCNQSDĐ được UBND xã T chứng thực ngày 03/12/2009 giữa ông T3, bà N, anh V và ông T1, bà T2 đối với thửa đất số 111 là vô hiệu 01 phần và xác định lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu của 5 người tham gia ký hợp đồng là ngang nhau, mỗi người chịu 1/5 giá trị thiệt hại từ đó buộc ông T1, bà T2 phải giao trả cho chị Lan A 158,9m2 đất nằm trong thửa đất số 111; buộc ông T3 trả ông T1 342.156.666đ; buộc bà N trả ông T1 171.078.333đ, trả bà T2 171.078.333đ; buộc anh V trả bà T2 342.156.666đ là không có căn cứ, không đúng quy định của pháp luật. Ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông T1, bà T2 và của người nhận chuyển nhượng QSDĐ từ ông T1, bà T2 là ông Á, bà T4.
Vì vậy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà Bùi Thị T4, và ông Nguyễn Ngọc T1 cũng như kháng nghị của Viện trưởng VKSND huyện Lạng Giang và đề nghị của đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang tại phiên tòa. HĐXX thấy cần căn cứ khoản 2 Điều 308 để sửa Bản án sơ thẩm số 24/2023/DS-ST ngày 01 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Lan A.
Đối với kháng cáo của bà Bùi Thị T2, tại phiên tòa phúc thẩm, bà T2 đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do được coi là từ bỏ kháng cáo. HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 296 của BLTTDS đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của chị T2.
[7]. Về chi phí định giá, thẩm định hết số tiền 20.500.000 đồng, tại phiên tòa sơ thẩm: anh V tự nguyện xin chịu cả số tiền này nên Tòa án sơ thẩm chấp nhận là có căn cứ. Tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Tuấn A1, anh Vũ Văn M đại diện theo ủy quyền cho chị Trần Thị Lan A đã nộp cho Tòa án toàn bộ số tiền thẩm định, định giá tài sản trên. Bản án sơ thẩm không buộc anh V phải có trách nhiệm thanh toán trả cho chị Lan A số tiền tạm ứng chi phí thẩm định, định giá 20.500.000 đồng là không đảm bảo quyền lợi của chị Lan A và giải quyết chưa triệt để.
[8]. Về án phí:
- Về án phí dân sự sơ thẩm: chị Trần Thị Lan A phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: căn cứ khoản 2 Điều 29 Nghị quyết do kháng cáo của bà T4, ông T1 được chấp nhận nên bà T4, ông T1 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Bà Bùi Thị T2 phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 3 Điều 296 của Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bà Bùi Thị T2.
2. Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật tố tụng dân sự, xử: chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Ngọc T1, chị Bùi Thị T4; chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm 24/2023/DS-ST ngày 01 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
Căn cứ Điều 106 của Luật đất đai năm 2003; Điều 689, Điều 691, Điều 692, từ Điều 697 đến Điều 702 của Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 147, Điều 165 của Bộ luật tố tụng dân sự, Xử:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Lan A đối với ông Nguyễn Ngọc T1, bà Bùi Thị T2 về tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được UBND xã T chứng thực ngày 03/12/2009 giữa ông Trần Văn T3, bà Trần Thị N, anh Trần Văn V với ông Nguyễn Ngọc T1, bà Bùi Thị T2. T đối với thửa đất có diện tích 635,6m2 tại thửa số 111, tờ bản đồ số 50 tại thôn T, xã T, huyện L được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ ngày 29/12/2005 cho hộ ông T3, bà N vô hiệu một phần;
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Lan A về yêu cầu giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu một phần và buộc ông T1, bà T2 trả lại quyền sử dụng một phần đất nằm trong thửa đất số 111, tờ bản đồ 50, diện tích 635,5m2 được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ ngày 29/12/2005 cho hộ ông T3, bà N theo quy định của pháp luật.
2. Về chi phí tố tụng: chấp nhận sự tự nguyện của anh Trần Văn V xin chịu cả 20.500.000 đồng tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản. Xác nhận chị Trần Thị Lan A do anh Nguyễn Tuấn A1 và anh Vũ Văn M đã tạm ứng đủ 20.500.000 đồng. Buộc anh Trần Văn V phải có trách nhiệm hoàn trả chị Trần Thị Lan A 20.500.000 đồng chi phí thẩm định, định giá đã tạm ứng.
3. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm: chị Trần Thị Lan A phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 12.000.000đ chị A đà nộp tiền tạm ứng án phí tại chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang theo biên lai thu số 0012958 ngày 21/6/2022. Hoàn trả chị A số tiền tạm ứng án phí còn thừa là 11.700.000 đồng.
- Án phí dân sự phúc thẩm: ông Nguyễn Ngọc T1, bà Bùi Thị T4 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả ông T1 300.000 đồng tạm ứng đã nộp tại biên lai thu số 0005584 ngày 26/6/2023; hoàn trả bà T4 300.000 đồng tạm ứng đã nộp tại biên lai thu số 0005568 ngày 22/6/2023 đều của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.
Bà Bùi Thị T2 phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng đã nộp tại biên lai thu số 0005580 ngày 26/6/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ thì phải chịu lãi suất theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền chậm trả tại thời điểm thanh toán.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 53/2024/DS-PT
Số hiệu: | 53/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 13/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về