Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 479/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 479/2023/DS-PT NGÀY 08/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 08 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 340/2023/TLPT-DS ngày 20 tháng 10 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Do Bản án Dân sự sơ thẩm số: 117/2023/DS-ST ngày 31 tháng 8 năm 2023, của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 411/2023/QĐPT-DS ngày 03 tháng 11 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: ông Vũ Quang H, sinh năm: 1951; nơi cư trú: ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn bà Đỗ Thị M, sinh năm: 1962; nơi cư trú: ấp D, xã S, huyện T, tỉnh Tây Ninh; theo văn bản ủy quyền ngày 19-4-2023; có mặt.

2. Bị đơn: ông Uông Văn H1, sinh năm: 1958; nơi cư trú: 19/2, hẻm D, đường N, khu phố F, Phường C, thành phố T, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Nguyễn Thị P, sinh năm: 1955; nơi cư trú: ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh.

Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị M, sinh năm: 1962; nơi cư trú: ấp D, xã S, huyện T, tỉnh Tây Ninh; theo văn bản ủy quyền ngày 09-5-2023; có mặt.

4. Người kháng cáo: bị đơn ông Uông Văn H1.

5. Viện kiểm sát kháng nghị: không.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa, nguyên đơn trình bày: ngày 03-9-1999, ông H nhận chuyển nhượng của ông Uông Văn H1 phần đất diện tích 4.700m2 tại ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh, với giá 09 chỉ vàng 24K, có làm “Giấy sang nhượng đất ruộng” giao cho ông H giữ; ông H1 giao đất cho ông H sử dụng trồng mì từ năm 1999 đến năm 2012 trồng cao su đến nay. Khi nhận chuyển nhượng thì phần đất phía sau nhiều hố bom, ông H đã san lắp, khai phá nên diện tích tăng. Khi Nhà nước cho kê khai đăng ký thì cha, mẹ ốm nặng nên ông H về quê. Lúc này, ông H1 đến gặp bà P (vợ ông H) mượn bản gốc “Giấy sang nhượng đất ruộng” ngày 03-9-1999” để đi kê khai và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 6.138,1m2. Ông H có hỏi tại sao thì ông H1 trả lời đăng ký nhầm. Ông H1 hứa sẽ làm thủ tục sang tên nhưng không thực hiện nên xảy ra tranh chấp. Trong quá trình giải quyết, Tòa án có giải thích cho ông H về việc ông H1 không đi lại được và muốn ông H đến nhà ông H1 để cùng nhau đến cơ quan có thẩm làm thủ tục chuyển nhượng. Khi ông H đến thì ông H1 nói chuyện rất khó nghe, nhiều yêu cầu vô lý, gây khó dễ cho ông H. Nay ông H, bà P yêu cầu ông H1 tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích 6.138,1m2 thuộc thửa đất số 10, tờ bản đồ 27 tại ấp Đ, xã T, tỉnh Tây Ninh. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 23-8-2019 do ông H1 đứng tên.

Bị đơn ông Uông Văn H1 trình bày: thừa nhận có chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông H; ông H1 đã giao đất và nhận đủ vàng. Ông H, bà P phải cộng tác thì ông sẽ làm thủ tục chuyển nhượng. Phần đất không thay đổi tứ cận so với khi chuyển nhượng. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không cầm cố, thế chấp cho ai.

Tại Bản án Dân sự sơ thm s: 117/2023/DS-ST ngày 31 tháng 8 năm 2023, của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh xử.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Vũ Quang H về việc “Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đối với bị đơn ông Uông Văn H1.

2. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn ông Vũ Quang H và bị đơn ông Uông Văn H1 được xác lập vào ngày 03-9-1999 đối với phần đất có diện tích 6.138,1m2 thửa số 10, tờ bản đồ số 27, tại ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh.

Ông Vũ Quang H, bà Nguyễn Thị P được quyền đăng ký, sử dụng phần đất có diện tích 6.138,1m2 thửa số 10 tờ bản đồ số 27 tọa lạc ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh, tứ cận: Bắc giáp thửa số 5 dài 176m; Nam giáp thửa số 15 dài 174,79m; Đông giáp thửa số 5 dài 34,74m; Tây giáp mương dài 35,40m; loại đất LUK. Trên đất có 312 cây cao su trồng năm 2012 hiện do vợ chồng ông H, bà P quản lý, sử dụng.

Ông Vũ Quang H, bà Nguyễn Thị P có quyền và nghĩa vụ yêu cầu Cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu Nhà ở và tài sản gắn liền với đất phần đất có diện tích 6.138,1m2 thửa số 10 tờ bản đồ số 27 tọa lạc ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh từ ông Uông Văn H1 sang ông Vũ Quang H, bà Nguyễn Thị P.

Kiến nghị Cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CS 120727 phần đất có diện tích 6.138,1m2 thửa số 10 tờ bản đồ số 27 tọa lạc ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp ngày 23-8- 2019 cho ông Uông Văn H1.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn giải quyết về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 05 tháng 10 năm 2023, bị đơn ông Uông Văn H1 có đơn kháng cáo cho rằng số đất dư khoảng 1.400 m2 so với diện tích đất ghi trong giấy tay, ông H phải trả cho ông hoặc mua theo giá thị trường; chi phí thẩm định ai yêu cầu thì người đó chịu.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn ông H1 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Ý kiến của Đại diện Viện kim sát nhân dân tỉnh Tây Ninh:

+ Về tố tụng: Thư ký, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng những quy định pháp luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung: giữa ông H1 và ông H có ký kết với nhau hợp đồng chuyển nhượng là có thật. Ông H1 đã giao đất cho ông H sử dụng năm 1999 và nhận đủ vàng. Từ khi chuyển nhượng đến nay tứ cận phần đất tranh chấp không thay đổi tứ cận. Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hợp đồng chuyển nhượng là có căn cứ. Đề nghị không chấp nhận đơn kháng cáo của ông H1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kim sát, xét thấy:

[1] Đơn kháng cáo của bị đơn ông Uông Văn H1 nộp trong thời hạn luật định, hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét nội dung kháng cáo ông H1 thấy rằng.

[2.1] Căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ có cơ sở xác định: phần đất tranh chấp gồm các thửa 502, 507, 509, 511, 514, 517, 519, 523, 525, 529, diện tích 5.648m2 tờ bản đồ số 2A, Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 27-7-1999 cho hộ ông Uông Văn H1. Theo Tờ cam kết và đơn xin xác nhận nhân khẩu thì hộ gia đình ông H1 có 04 người gồm: Uông Văn H1, Giang Thị T (vợ ông H1), Uông Văn T1, Uông Văn B (con ông H1). Bà T chết ngày 30-12-2001, ông H1 và các con lập Văn bản phân chia thừa kế tặng cho phần thừa kế của mình cho ông Uông Văn H1 được toàn quyền quản lý, sử dụng, định đoạt, được quyền giao dịch dân sự, được quyền lập thủ tục sang tên đăng ký diện tích đất, có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Sau đó ông H1 kê khai đăng ký được Sở Tài nguyên và Môi trường cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 23-8-2019 thửa số 10 tờ bản đồ số 27 diện tích 6.138,1m2 do ông H1 đứng tên.

[2.2] Trong quá trình lấy lời khai hai bên thừa nhận ngày 03-9-1999 ông H1 ký hợp đồng chuyển nhượng phần đất nêu trên cho ông Vũ Quang H, có lập giấy tay thể hiện diện tích 4.700m2 với giá 09 chỉ vàng. Ông H đã giao đủ vàng và nhận đất sử dụng, nhưng chưa làm thủ tục sang tên.

Xét thấy, tại thời điểm ký kết hợp đồng chuyển nhượng thì đất ông H1 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hình thức chuyển nhượng giấy tay; ông H1 đã nhận đủ vàng và giao giao đất cho ông H quản lý sử dụng; khi giao kết hợp đồng hai bên có đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi, tự nguyện, không trái pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm xử công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là có căn cứ theo quy định tại các Điều 117, 129, 688 của Bộ luật dân sự 2015 và Án lệ số 55/2022/AL ngày 07-9-2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.

[2.3] Ông H1 kháng cáo cho rằng theo giấy tay thì diện tích đất chuyển nhượng là 4.700 m2, diện tích được cấp giấy là 6.138,1m2 dư 1.438,1 m2, ông yêu cầu ông H phải trả cho ông hoặc mua theo giá thị trường.

Xét thấy, trong quá trình lấy lời khai ông H1 thừa nhận phần đất chuyển nhượng cho ông H có tứ cận không thay đổi so với trước đây; khi chuyển nhượng hai bên không đo đạc thực tế; ông H sử dụng 6.138,1m2 đất từ năm 1999 cho đến nay ông H1 biết nhưng không ý kiến gì. Ông H1 yêu cầu ông H phải trả lại đất hoặc mua theo giá thị trường là không có căn cứ, nên không chấp nhận.

[2.4] Về chi phí tố tụng: do yêu cầu khởi kiện của ông H được chấp nhận, cho nên ông H1 phải chịu tiền chi phí xem xét thẩm định và chi phí định giá tài sản. Tòa án cáp sư thảm buộc ông H1 phải chịu là có căn cứ theo quy định tại Điều 157, 165 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Từ những phân tích nêu trên xét thấy yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông H1 không có căn cứ, nên không chấp nhận.

[4] Đại diện Viện kiểm sát đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp nên chấp nhận.

[5] Về tiền án phí dân sự sơ thẩm: ông H1 là người cao tuổi nên không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[6] Về tiền án phí dân sự phúc thẩm: ông H1 là người cao tuổi nên không phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm theo Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[7] Những phần của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ vào Điều 117, 129, 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Uông Văn H1.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Vũ Quang H về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đối với bị đơn ông Uông Văn H1.

3. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vũ Quang H và ông Uông Văn H1 được xác lập vào ngày 03-9-1999 đối với phần đất có diện tích 6.138,1m2 thửa số 10 tờ bản đồ số 27 tọa lạc ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh.

4. Ông Vũ Quang H, bà Nguyễn Thị P được quyền đăng ký, sử dụng phần đất có diện tích 6.138,1m2 thửa số 10 tờ bản đồ số 27 tọa lạc ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh, tứ cận: Bắc giáp thửa số 5 dài 176m; Nam giáp thửa số 15 dài 174,79m; Đông giáp thửa số 5 dài 34,74m; Tây giáp mương dài 35,40m; loại đất LUK. Trên đất có 312 cây cao su trồng năm 2012 hiện do vợ chồng ông H, bà P quản lý, sử dụng.

5. Ông Vũ Quang H, bà Nguyễn Thị P có quyền và nghĩa vụ yêu cầu Cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu Nhà ở và tài sản gắn liền với đất có diện tích 6.138,1m2 thửa số 10 tờ bản đồ số 27 tọa lạc ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh từ ông Uông Văn H1 sang ông Vũ Quang H, bà Nguyễn Thị P.

6. Kiến nghị Cơ quan có thẩm quyền thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CS 120727 phần đất có diện tích 6.138,1m2 thửa số 10 tờ bản đồ số 27 tọa lạc ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp ngày 23-8-2019 cho ông Uông Văn H1.

7. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và chi phí định giá tài sản: buộc ông Uông Văn H1 có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Vũ Quang H số tiền 3.000.000 (Ba triệu) đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.

Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chưa thi hành xong đối với các số tiền nêu trên thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải trả thêm cho bên được thi hành án khoản tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

8. Về án phí: ông Uông Văn H1 được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm.

9. Những phần của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

10. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

11. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 479/2023/DS-PT

Số hiệu:479/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về