Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 407/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 407/2023/DS-PT NGÀY 08/11/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 08 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 297/2023/TLPT-DS ngày 04 tháng 10 năm 2023, về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; đòi lại tài sản”. Do Bản án Dân sự sơ thẩm số: 102/2023/DS-ST ngày 23 tháng 8 năm 2023, của Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 217/2023/QĐPT-DS ngày 09 tháng 10 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị Mỹ P, sinh năm 1989; nơi cư trú: khu phố A, phường A, thị xã T, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: bà Dương Thị Kiều N, sinh năm 1983; nơi cư trú: tổ D, ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

2. Bị đơn: ông Hồ Văn S, sinh năm 1970; nơi cư trú: số C, tổ A, ấp K, xã C, Huyện D, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Hồ Thị H, sinh năm 1964; nơi cư trú: số F, tổ A, đường số F, khu phố A, phường A, thị xã T, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

3.2. Anh Lê Văn T, sinh năm 1981; nơi cư trú: số C, tổ A, ấp K, xã C, Huyện D, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của ông T là bà Dương Thị Kiều N, sinh năm 1983; nơi cư trú: tổ D, ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

3.3. Bà Đinh Thị L, sinh năm 1974; có đơn xin vắng mặt;

3.4. Chị Hồ Thị Kim T1, sinh năm 1997; có đơn xin vắng mặt;

3.5. Chị Hồ Thị T2, sinh năm 1999; có đơn xin vắng mặt;

3.6. Chị Hồ Thị T3, sinh năm 2002; có đơn xin vắng mặt;

3.7. Anh Hồ Thanh H1, sinh năm 2006;

Cùng nơi cư trú: số C, tổ A, ấp K, xã C, Huyện D, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

4. Người kháng cáo: nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ P, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Văn T.

5. Viện kiểm sát kháng nghị: không.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa, nguyên đơn trình bày: vào tháng 11-2018 không nhớ ngày, chị P có nhận chuyển nhượng của ông S phần đất diện tích 418,6 m2, thuộc thửa số 132, tờ bản đồ 12 (thửa cũ 3539, tờ bản đồ 02), với giá 680.000.000 đồng (97.140.000 đồng/01 mét ngang); tại ấp K, xã C, Huyện D, tỉnh Tây Ninh, do ông S đứng tên. Hai bên chỉ thỏa thuận bằng miệng, không làm giấy, có bà Hồ Thị H chứng kiến. Do giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang thế chấp tại ngân hàng, khi nào ông S lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về thì sang tên cho chị P. Cùng ngày, chị P đã trả đủ số tiền 680.000.000 đồng cho ông S, nhưng không có làm giấy, có bà H chứng kiến. Đến tháng 3-2019, ông S xây nhà, ông S nhờ chị P trả tiền công xây nhà cho ông Đ là 208.890.000 đồng, trả tiền mua la phong nhà tại cửa hàng N1 45.000.000 đồng, tổng cộng 253.890.000 đồng. Việc cho vay không lãi, không làm giấy, không thời hạn. Sau khi ông S xây nhà xong thì tách thửa đất đã mua cho chị P, tiền vay không trả được tiếp tục bán thêm đất cho đủ số tiền vay. Sau khi xây nhà xong, ông S không thực hiện tách thửa sang tên đất cho chị P. Chị P khởi kiện yêu cầu ông S tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào tháng 11-2018 và yêu cầu ông S trả số tiền vay là 253.890.000 đồng.

Bị đơn ông Hồ Văn S trình bày: năm 2019, ông có chuyển nhượng cho bà H phần đất chiều ngang 06 m x dài 50 m, với giá 360.000.000 đồng (60.000.000 đồng/01 mét ngang), có làm giấy tay. Ông không có chuyển nhượng cho chị P; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông không có thể chấp cho ngân hàng. Tiền bán đất 360.000.000 đồng ông giao cho bà H, để giao lại cho chị P trả tiền mua vật liệu xây nhà giúp ông. Sau đó giữa bà H và chị P giao nhận số tiền 360.000.000 đồng như thế nào thì ông không biết. Chị P có dẫn ông Đ đến xây nhà cho ông. Chị P thay ông trả tiền công thợ cho ông Đ là 214.000.000 đồng và trả tiền vật liệu xây nhà. Sau khi nhà xây xong, ông cùng với bà H, chị P có tính toán tiền xây nhà với nhau, thì ông còn nợ chị P số tiền 120.000.000 đồng; có làm giấy do chị P tính. Sau đó ông vay Ngân hàng A - Phòng G số tiền 120.000.000 đồng để trả cho chị P nhưng không có làm giấy. Ông không còn nợ tiền của chị P. Bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông đang giữ, không có cầm cố thế cho ai. Ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện của chị P.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hồ Thị H trình bày: thừa nhận lời khai của ông S là đúng. Bà có nhận chuyển nhượng của ông S phần đất diện tích là 299 m2, có làm giấy tay ngày 03-3-2019. Chị P không có nhận chuyển nhượng đất của ông S. Thời điểm này, chị P đang giữ tiền riêng của bà 500.000.000 đồng nên bà khấu trừ tiền này cho chị P để khấu trừ vào tiền xây nhà cho ông S. Về tiền công thợ của ông Đ 214.000.000 đồng thì bà trực tiếp trả, việc trả có làm giấy tờ, nhưng không cung cấp được. Chị P chỉ trả tiền mua vật liệu xây nhà. Sau khi nhà ông S xây xong thì bà, ông S, chị P có tính toán tiền xây nhà, thì số tiền 500.000.000 đồng chị P giữ của bà không đủ mua vật liệu, ông S còn nợ tiền chị P mua vật liệu là 320.000.000 đồng. Lúc này, bà vay tiền Ngân hàng để trả lại cho chị P thay cho ông S 320.000.000 đồng. Vay tiền ngân hàng xong, bà đưa cho chị P 360.000.000 đồng (trừ tiền 360.000.000 đồng mua đất của ông S) và 120.000.000 đồng (là tiền chị P trước đây trả tiền ngân hàng cho ông S hai đợt vào năm 2021 là 60.000.000 đồng và năm 2022 là 60.000.000 đồng). Hiện ông S không có nợ tiền gì của chị P. Việc chị P khai ông S vay chị P 253.890.000 đồng là không đúng. Bà không đồng ý yêu cầu khởi kiện của chị P. Bà Đinh Thị L, chị Hồ Thị Kim T1, chị Hồ Thị T2, chị Hồ Thị T3, anh Hồ Thanh H1 trình bày: thống nhất với trình bày và quyết định của ông S.

Ông Trần Trung Đ1 trình bày: ông có nhận thi công nhà cho ông S với giá 214.690.000 đồng. Phần mua vật tư xây dựng thì do ông Sáu t mua. Hai bên có ký hợp đồng thi công đề ngày 03-3-20019. Khi ký hợp đồng thì ông S có nói là sau này vật tư do chị P lo hết nên sau khi ông và ông S ký hợp đồng, toàn bộ tiền thi công 214.690.000 đồng do chị P trả cho ông. Quá trình xây nhà, vật liệu xây nhà chị P mua gần như toàn bộ, thực tế mua bao nhiêu ông không rõ. Nay hai bên tranh chấp thì ông không biết rồ nên không có ý kiến. Liên quan đến việc chị P nhận chuyển nhượng đất thì ông có nghe nói chị P bô tiền mua vật tư xây nhà bao nhiêu thì sau này ông S sẽ cắt đất bấy nhiêu bán cho chị P, thiếu đủ tính sau. Ông không có lần nào nghe thông tin về việc bà H mua đất của ông S.

Tại Bản án Dân sự sơ thm s: 102/2023/DS-ST ngày 23 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Mỹ P đối với ông Hồ Văn S, về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Mỹ P đối với ông Hồ Văn S, về tranh chấp đòi tài sản.

Buộc ông Hồ Văn S có nghĩa vụ trả chị Nguyễn Thị Mỹ P, anh Lê Văn T số tiền 120.000.000 (một trăm hai mươi triệu) đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn giải quyết về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 05 tháng 9 năm 2023, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ P, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Văn T có đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng buộc ông S phải chuyển nhượng cho ông, bà phần đất diện tích 418,6 m2; buộc ông S phải trả số tiền 253.890.000 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện cho chị P, anh T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Ý kiến của Đại diện Viện kim sát nhân dân tỉnh Tây Ninh:

+ Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng những quy định pháp luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung: căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án và kết quả tại phiên tòa xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Mỹ P về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Mỹ P về tranh chấp đòi tài sản, buộc ông Hồ Văn S có nghĩa vụ trả chị Nguyễn Thị Mỹ P, anh Lê Văn T số tiền 120.000.000 đồng là có căn cứ. Đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị Nguyễn Thị Mỹ P, anh Lê Văn T; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Đại diện Viện kim sát, xét thấy:

[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ P, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Văn T làm trong thời hạn luật định, hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét nội dung kháng cáo.

[2.1] Chị P khai vào tháng 11-2018, bà có nhận chuyển nhượng của ông S diện tích 418,6 m2, với giá 680.000.000 đồng, không làm giấy tờ. Bà đã trả đủ 680.000.000 đồng cho ông S bằng hình thức trả tiền vật liệu xây dựng nhà cho ông S. Ông S không thừa nhận việc chuyển nhượng đất cho chị P; không nhận của chị P số tiền 680.000.000 đồng, ông S thừa nhận có chuyển nhượng cho bà H phần đất diện tích 299 m2 (ngang 06 m dài 50 m) với giá 360.000.000 đồng, có làm giấy tay. Chị P khởi kiện ông S yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng nêu trên nhưng không đưa ra được chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị P là có căn cứ, đúng pháp luật. Chị P kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chị P với ông S là không có căn cứ nên không chấp nhận.

[2.2] Đối với khoản nợ 253.890.000 đồng:

Chị P cho rằng tháng 3-2019, ông S vay tiền của bà xây nhà, chị P không giao tiền cho ông S mà trả tiền công xây nhà cho ông S là 208.890.000 đồng, trả tiền mua la phong nhà tại cửa hàng N1 45.000.000 đồng, tổng cộng 253.890.000 đồng.

Xét thấy, trong quá trình giải quyết các đương sự có nhiều lời khai mâu thuẫn nhau; tuy nhiên, các đương đều thống nhất, thừa nhận chị P là người trả tiền công thợ, tiền mua vật liệu và chi phí khác xây nhà cho ông S. Sau khi xây nhà xong, ông S, chị P, bà H tính toán các khoản tiền nhà của ông S và các khoản nợ khác, giấy tính tiền do chị P viết thể hiện như sau: tổng số tiền chi phí xây nhà là 800.000.000 đồng - (360.000.000 đồng tiền bán đất ông S giao cho bà H giữ + tiền bà H cho ông S 50.000.000 đồng + tiền ông S gửi bà H 80.000.000 đồng) còn lại 310.000.000 đồng. Giao cho ông S mang về 20.000.000 đồng, còn lại 290.000.000 đồng, trừ khoản vay ngân hàng 170.000.000 đồng, còn nợ 120.000.000 đồng.

Như vậy, số tiền 253.890.000 đồng chị P yêu cầu ông S trả nằm trong tổng số tiền chi phí xây nhà là 800.000.000 đồng. Theo bản chiết tính do chính chị P ghi thể hiện ông S còn nợ chị P số tiền 120.000.000 đồng. Ông S cho rằng đã trả cho chị P xong nhưng không đưa ra được chứng cứ, chứng minh. Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông S phải trả cho chị P số tiền 120.000.000 đồng là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm ông S không kháng cáo. Chị P kháng cáo yêu cầu ông S phải trả số tiền nợ 253.890.000 đồng là không có căn cứ nên không chấp nhận.

[3] Từ những phân tích nêu trên, xét thấy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo chị P, anh T; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị P, anh T; giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ nên chấp nhận.

[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận nên chị P, anh T phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm theo khoản 2 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[6] Những phần của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ vào các điều 463, 467, 500, 501, 502 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ P; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Văn T.

2. Giữ nguyên Bản án Dân sự sơ thẩm số: 102/2023/DS-ST ngày 23 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.

2.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Mỹ P về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đối với bị đơn ông Hồ Văn S.

2.2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Mỹ P về tranh chấp đòi tài sản, đối với bị đơn ông Hồ Văn S.

Buộc ông Hồ Văn S có nghĩa vụ trả chị Nguyễn Thị Mỹ P, anh Lê Văn T số tiền 120.000.000 (một trăm hai mươi triệu) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí dân sự phúc thẩm:

Chị Nguyễn Thị Mỹ P, anh Lê Văn T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm, nhung được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0013809 ngày 05-9-2023, của Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh (đã nộp xong).

4. Những phần của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 407/2023/DS-PT

Số hiệu:407/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:08/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về